Nội dung công tác lý luận phê bình gắn với định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam
Sự cần thiết
Hiện tại, còn 3 năm nữa là đến năm 2020, cái mốc mà Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bằng quyết định số: 112/2002/QĐ TTg ngày 03/9/2002. Khoảng thời gian này không đủ để định hướng có một tầm nhìn cần thiết. Vì vậy, nên chọn một hướng nhìn có tầm nhìn xa hơn, cụ thể là đến năm 2030, để đủ thời lượng triển khai các nội dung, đánh giá kết quả theo lộ trình định hướng, đủ cơ sở để sơ kết từng giai đoạn 5 năm một lần để bổ sung, điều chỉnh giai đoạn tiếp theo cho đúng hướng và phù hợp với xu thế mới của kiến trúc Việt Nam.
Trong những thập niên tới thách thức lớn về thay đổi khí hậu toàn cầu càng rõ rệt hơn. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Vì thế, định hướng phát triển kiến trúc phải đáp ứng khả năng ứng phó với tình trạng trái đất nóng lên, thiên tai khắc nghiệt hơn, nước biển dâng cao ở diện rộng tất cả các tỉnh vùng duyên hải trên phạm vi cả nước.
Tốc độ phát triển dân số đô thị Việt Nam tăng nhanh, yêu cầu về xây dựng lớn, quỹ đất dành cho phát triển đô thị đang bị thu hẹp, vì thế thiết kế kiến trúc được đặt ra định hướng mới phù hợp hơn.
Các khu đô thị mới, các khu ở trong đô thị hình thành rất nhanh là một hình ảnh mới cho các đô thị nhưng cũng là thách thức cho những đô thị cũ. Tại đó thiếu tính nối kết không gian, không thống nhất về hình thái kiến trúc rất cần một định hướng trong quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị và quy định mới trong thiết kế kiến trúc.
Trong thập kỷ tới, khoa học nhân loại sẽ có bước dài, bao gồm kỹ thuật ứng dụng trong việc thiết kế, sử dụng không gian mới, vật liệu mới, kết cấu mới đặt ra cho công tác thiết kế, xây dựng công trình phải có định hướng phù hợp nhằm tiết kiệm thời gian, tài nguyên, đất đai và thân thiện môi trường.
Nông thôn Việt Nam hiện tại chiếm khoảng 62% dân số cả nước, nơi lưu giữ phần lớn những giá trị văn hoá truyền thống, đang bị xáo động bởi làn sóng đô thị hoá, sự biến đổi hình thái kiến trúc nông thôn đã có những biểu hiện tiêu cực cần được hướng dẫn điều tiết cho thích hợp. Xây dựng nông thôn mới theo những tiêu chí do Chính phủ quy định là văn minh, tiến bộ, hiện đại, do đó rất cần đổi mới phương pháp, nội dung trong quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Thiết kế kiến trúc cũng cần điều chỉnh theo phương châm, định hướng đổi mới, tiêu chuẩn mới theo hướng hiện đại, văn minh, bảo tồn giá trị nghề truyền thống đang tiềm ẩn trong nông thôn.
Để định hướng vào thực tiễn và khả thi cần có sự tham gia, phân giao nhiệm vụ cho Bộ, Ngành, các Tỉnh, Thành phố, các Hội nghề nghiệp thực hiện. Cần chỉ ra nguồn lực thực hiện, Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp có kế hoạch đảm bảo tài chính,phân bổ sử dụng kinh phí tới các chương trình thực hiện định hướng. Mặt khác chính quyền phải duy trì việc tổ chức kiểm tra, tổng kết giai đoạn về thực hiện định hướng phát triển kiến trúc.
Việc xây dựng, ban hành Luật Kiến trúc có tính cấp bách. Việc thể chế hoá định hướng kiến trúc phải đặt ra cho nhiệm vụ trước mắt và lâu dài cho các Bộ, Ngành và địa phương. Quy chế quản lý quy hoạch, cảnh quan kiến trúc là nhiệm vụ cụ thể, là giải pháp thiết thực được Chính phủ xây dựng, ban hành trong các năm gần đây cần được cập nhật vào Định hướng.
Công tác xuất bản, ấn phẩm về kiến trúc trong và ngoài nước cũng như phổ biến chính sách pháp luật, tuyên truyền về định hướng tạo dựng không gian kiến trúc và khung cảnh sống trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vì thế cần thiết lập chương trình truyền hình về định hướng kiến trúc Việt Nam rất cần thiết để hướng dẫn dư luận, nâng cao nhận thức để người dân tự giác thực hiện theo định hướng.
Việc xây dựng Định hướng Lý luận Phê bình (LLPB) kiến trúc là nhằm cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển văn hóa Việt Nam. Đồng thời xác lập những mục tiêu, yêu cầu chủ yếu; Là công cụ lý luận để từng bước thực hiện việc xây dựng nền kiến trúc Việt Nam hiện đại, văn minh, giàu bản sắc truyền thống Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu.
Lĩnh vực lý luận phê bình sáng tác kiến trúc đang thiếu định hướng
Tình hình kém lý luận và thiếu thông tin trong lĩnh vực LLPB kiến trúc đã có ảnh hưởng đến chất lượng sáng tác kiến trúc. Thực tế có nhận định trong giới chuyên môn như sau:
Bình nghệ thuật và Nghệ thuật bình ở nước ta từ khi hình thành đã rất được quan tâm. Thú chơi nghệ thuật bình luận văn học, nghệ thuật trước đây có nhiều thời kỳ rất nổi bật và tinh tế. Đối với việc bình luận tác phẩm, tác giả ngày xưa nhẹ nhàng và tế nhị. Vì thế, nó giúp ích cho nhiều người bình và người được góp ý. Nhưng cũng có trường hợp gần đây có khi người ta lợi dụng phê bình để vụ lợi cá nhân thiếu tính nhân văn trong phê bình tác phẩm.
Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực nghệ thuật, bình luận đi đúng lẽ đời, mục tiêu hợp đạo thì nó đóng góp lớn cho nghệ thuật của ngành đó phát triển không ngừng và ngược lại… Chẳng hạn, trong văn học những năm 1936 – 1945 đã để lại những ấn phẩm đỉnh cao về nghệ thuật bình phẩm. Riêng trong sáng tác kiến trúc và công trình kiến trúc, vẫn còn tình trạng phê chưa chuẩn mà bình chưa thật minh.Nguyên do cho thực tế đó có thể bàn thêm từ những phía nhìn đa chiều hay còn gọi là tiếp cận lập thể. Đó là nhìn từ: đối tượng để phê bình; Giá trị của tác phẩm, công trình; Năng lực lý luận và thực tiễn của người bình; Văn hóa nhận thức, tiếp thu của người nghe. Cụ thể là:
Đối tượng để chúng ta nhìn nhận thường là sản phẩm kiến trúc sau thiết kế, công việc thi công làm nên công trình kiến trúc hiện hữu, được định vị trong không gian. Công trình đó có thể do tổ chức cá nhân trong nước hay nước ngoài thiết kế. Đối tượng phải là một tập hợp giá trị nghệ thuật và vật chất bao gồm: cả hồ sơ thiết kế, bản thảo ý tưởng, năng lực xây lắp, kỹ năng hoàn thiện, trang trí, trách nhiệm bảo trì…
Tuy nhiên, lâu nay ta thường chỉ nhìn vào công trình để phán xét trình độ, tài năng hay chê bai tác giả vẽ ra nó mà không nghĩ rằng đó là kết quả bởi đồng tác giả. Trong lúc kiến trúc sư thiết kế bị phê bình thì nhà thầu như vô can. Còn khi tác giả công nhận giải thưởng thì tổ chức thi công đứng ngoài cuộc. Vậy nên, về đối tượng phê hay bình kiến trúc cần bàn tới là mối liên kết trách nhiệm của tư vấn, nhà thầu và có trường hợp là cả chủ đầu tư xây dựng nữa.
Giá trị bản chất của kiến trúc được biểu kiến bằng giá trị sử dụng và giá trị nghệ thuật. Tiếc rằng, có lúc có nơi tác phẩm kiến trúc đánh đồng hoặc tách biệt hai giá trị này. Khi thì coi trọng hình thức để xét nét. Có khi chỉ xem đó là cái để sử dụng chẳng chú trọng hình thể. Vì thế mà bộ mặt đô thị xấu đi không ai bắt buộc những công trình xấu cần phải biết đang là xấu ở điểm nào, mặc dù loại công trình này hoàn toàn bình đẳng, tồn tại trong không gian đô thị, có khi chiếm số nhiều, có nơi tới 70 – 80%. Đa phần các cuộc trao đổi thường chỉ chú trọng hình thức của những công trình có quy mô lớn, tại vị trí dễ nhìn thấy. Những công trình còn lại thường không được giới phê bình ngó tới. Vậy nên số đông loại này thường thoát hiểm. Nhưng chính đó mới là nỗi nhức nhối của đô thị. Những cuộc bàn luận chẳng thay đổi được gì nhiều cho việc làm mới, làm cho bản sắc kiến trúc Việt Nam được tôn vinh. Như thế có thể coi trọng công tác phê bình đang đi trật mục tiêu cần có.
Năng lực bình và phê đòi hỏi chuyên sâu, cần có bản lĩnh và nhất là phải được đào tạo trên cơ sở năng khiếu bẩm sinh về loại nghệ thuật khó chơi này. Thế nhưng từ lâu nước ta chưa có ngành học, môn dạy phê bình kiến trúc. Cho nên thỉnh thoảng có bài viết về lĩnh vực này thường rơi vào tình trạng nội dung chung chung, bàn luận nhạt nhẽo, chẳng ai có gì để mà bàn tiếp, thế là rơi vào lãng quên.
Nhận thức về phê bình, tiếp thu phê bình rất cần. Nhưng phê bình không làm đủ trọng trách là hướng dư luận vào việc điều chỉnh hành vi lệch lạc trong hành nghề kiến trúc sư, trong hoạt động xây dựng, trong đầu tư. Vì thế chưa nói tới việc phê bình có thể thay đổi sự bất cần của một bộ phận chủ nhà lắm tiền, hoặc của nhóm tác giả dễ quên trách nhiệm nghề nghiệp. Và lúc này vai trò phê bình ở đâu, các hội nghề nghiệp lên tiếng ra sao mà để một công trình công sở loại lớn vừa mới đưa vào sử dụng được ví như một ông Tây già. Điều này có thể đang là chủ đề chính, có tính thời cuộc trong diễn đàn thảo luận hiện nay. Phê bình hay và đúng, tiếp cận góp ý ở mức trọng thị để tự điều chỉnh là văn hóa. Hiện thời, cái văn nhân – bản hóa ở ta chưa mấy được tôn trọng thì còn phải đợi chờ.
Hệ thống tiêu chuẩn ISO về xây dựng; Những quy chuẩn về quy hoạch, về xây dựng, về phòng cháy, chữa cháy… và hệ thống tiêu chuẩn của các nước phát triển là nguồn chất xám và trí tuệ quý báu của cộng đồng thế giới chưa được khai thác là trở ngại lớn đối với chủ trương xuất khẩu thiết kế, thi công ra các nước và hội nhập thế giới.
Bước vào Thế kỷ XXI, tri thức và thông tin đang trở thành động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, việc thu thập và trao đổi thông tin bình luận về kiến trúc với các nước còn rất hạn chế. Nhiều cơ quan nghiên cứu tư vấn, khi giải quyết một vấn đề mới hoặc thiết kế các công trình lớn, phức tạp về công nghệ, thường gặp khó khăn, lúng túng về tư liệu và kiến thức về thế nào cho đúng, cho tốt.
Trong lĩnh vực đào tạo còn thiếu hẳn phương pháp bình luận tác phẩm, lý luận về mỹ học, nội dung này trong chương trình đào tạo kiến trúc sư còn những hạn chế, vì vậy chất lượng phê bình lý luận kiến trúc, nội dung và kết quả đào tạo là chưa đủ, chưa chuẩn và chưa sâu.
Những nguyên nhân chủ yếu
Những biến đổi nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội vừa là cơ sở sáng tạo kiến trúc, vừa đặt ra những yêu cầu rất mới mẻ, luôn tác động qua lại giữa mới – cũ, hiện đại với truyền thống, giữa bảo thủ và hội nhập, dẫn tới sự lúng túng trong hoạt động sáng tác kiến trúc.
Sự bùng nổ về thông tin, truyền thông đi kèm với làn sóng giao thoa, du nhập với nhiều yếu tố mới, phương tiện kỹ thuật dẫn đến những khó khăn trong quản lý vấn đề mới mẻ như tình trạng sao chép lẫn nhau, vi phạm bản quyền, sở hữu trí tuệ.
Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, nhận thức về vị trí, vai trò của định hướng trong kiến trúc của nhiều cấp, nhiều ngành chưa đúng tầm; Chưa nhận thấy rõ mối quan hệ gắn bó giữa kinh tế với văn hóa thông qua hình ảnh kiến trúc nước nhà, chưa coi định hướng phát triển kiến trúc là trách nhiệm của toàn xã hội. Chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với việc định hướng cho kiến trúc phát triển đúng hướng, hiệu quả và lành mạnh, hài hoà với thiên nhiên và văn hoá Việt Nam. Chậm ban hành hoặc đổi mới các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý kiến trúc ở đô thị và nông thôn. Các giải pháp thường bị động, mang tính tình thế; Có biểu hiện buông lỏng, hữu khuynh, vừa áp đặt chủ quan; Thiếu tầm nhìn xa. Vì thế tình trạng lai căng, tuỳ tiện siêu mỏng, siêu méo trong kiến trúc thời kỳ đổi mới phổ biến hơn thời kì trước đó. Nghiên cứu lý luận kiến trúc còn thiếu khả năng dự báo và định hướng; Chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến bản sắc kiến trúc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, bảo tồn và phát triển, văn hóa và kinh tế, diện mạo kiến trúc đô thị và nông thôn chưa đảm bảo hội nhập, đổi mới và truyền thống. Thực tế khả năng kinh tế nước nhà, cơ chế chính sách chưa đủ để khuyến khích năng lực sáng tạo của các kiến trúc sư, cũng như các nhà đầu tư cho xây dựng công trình theo hướng đổi mới mang giá trị truyền thống, kể cả khu vực nông thôn.
Chậm đổi mới công tác xây dựng pháp luật về kiến trúc đô thị và kiến trúc nông thôn. Các văn bản pháp luật về quản lý và hướng dẫn Định hướng kiến trúc còn thiếu tính hệ thống, không đồng bộ về chuẩn mực. Đặc biệt chưa chú trọng điều kiện kinh tế giữa các vùng; việc thể chế hóa các nghị quyết của Chính phủ, quan điểm của Đảng còn chậm, tổ chức thực hiện còn yếu nên nhiều văn bản quy phạm, pháp luật về kiến trúc chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Đội ngũ sáng tác, chưa đủ sức tạo dựng được hình ảnh chung có tính dẫn hướng cho quá trình phát triển, như định hướng lối sống, khuyến cáo thị hiếu về không gian, hình thức công trình kiến trúc. Trong sáng tác, tư vấn kiến trúc hiện còn nhiều công trình kiến trúc tuy lớn về quy mô, đặt ở vị trí quan trọng chưa thể hiện được tính chất sáng tạo mới mẽ hoặc điển hình về hình ảnh giàu bản sắc dân tộc. Số lượng công trình kiến trúc hiện đại, tầm cỡ quốc gia xuất hiện ngày một nhiều, song còn ít tác phẩm đạt đỉnh cao, tương xứng với thành tựu đạt được của ngành xây dựng, kiến trúc nước nhà và thành tựu kinh tế của công cuộc đổi mới. Không ít tác phẩm còn thể hiện sự dễ dãi, chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng. Một bộ phận kiến trúc sư tỏ ra yếu kém trong tiếp cận và nhận thức về những biến đổi và những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hiện đại, lệch lạc trong xu hướng sáng tác và biểu hiện hình ảnh kiến trúc mới trong quá trình đổi mới và hội nhập; Một số tác phẩm công trình kiến trúc giai đoạn gần đây có biểu hiện bắt chước, sao chép hoặc chạy theo hình thức cổ đã đánh mất bản sắc kiến trúc dân tộc, tính hiện đại và truyền thống hầu như không kết hợp được. Tình trạng nghiệp dư hóa trong thiết kế kiến trúc phi chuyên nghiệp có chiều hướng tăng lên. Sáng tác kiến trúc trong thời gian dài không rõ định hướng, lúng túng trong việc thể hiện bản sắc truyền thống trong công trình kiến trúc hiện đại Việt Nam, tạo nên tình trạng lai tạp, lộn xộn trong bộ mặt kiến trúc đô thị, nông thôn hiện nay.
Hoạt động xây dựng, chất lượng và trình độ thi công công trình chưa thực sự góp phần thúc đẩy sự phát triển của kiến trúc. Công tác quản lý lập, thực hiện quy hoạch xây dựng chưa theo kịp phát triển của cuộc sống. Tính đa dạng của kiến trúc vùng miền, đặc trưng các vùng địa lý, ứng phó biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển dâng cao tại các đô thị ven biển chưa được như mong muốn.
Nhiệm vụ xây dựng nền kiến trúc đặc thù Việt Nam hiện đại, dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa được tạo lập rõ ràng. Bệnh hình thức, sao chép, còn khá phổ biến trong các hoạt động tư vấn kiến trúc công trình. Phong trào tự xây dựng nhà ở còn nhiều tự phát, tự thiết kế thi công, bộ mặt đô thị nông thôn biến tướng, vụn vặt, manh mún về hình thức. Sự xuống cấp về nhận thức, lối sống tuỳ tiện của một bộ phận xã hội ngay trong đô thị ảnh hưởng tiêu cực đến sự lệch lạc về hình thức kiến trúc đô thị, nông thôn. Hiện tượng xây dựng công trình trái phép, không phép, quá phép, coi thường luật pháp, xây dựng nhại cổ, nệ cổ và phục cổ khá nhiều cả trong nhà ở, công trình trụ sở đã làm mất tính hài hoà, thống nhất kiến trúc ở đô thị và lai tạp hỗn độn ở nông thôn.
Hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng khá sôi động, tình trạng xây dựng đền, chùa mới tuỳ tiện hình thức và bố cục; Về quy mô, hình thức, ngôn ngữ kiến trúc có sự lạm dụng dẫn tới sự tới xa lạ với truyền thống; Trong xây dựng sử dụng vật liệu hỗn tạp, tuỳ tiện. Việc phục hồi kiến trúc cổ nhằm bảo tồn phát huy kiến trúc truyền thống có nơi còn mang tính tự phát, mang tính phong trào, thiếu chọn lọc; Chưa khai thác, phát huy được đầy đủ nét độc đáo, bản sắc riêng và giá trị tốt đẹp của kiến trúc truyền thống; đồng thời cũng chưa chú ý phát huy tính học thuật, kinh nghiệm, vai trò phản biện, đóng góp chuyên môn sâu chưa thật sự được coi trọng, ảnh hưởng tới chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc kiến trúc của các dân tộc, kiến trúc vùng miền.
Công tác biểu dương khen thưởng công trình có giá trị nghệ thuật, có tính định hướng tiêu biểu, hoặc mẫu điển hình tốt chưa đuợc nhận thức đầy đủ, việc tổ chức đăng ký, bình xét còn nhiều thủ tục phức tạp, chưa thường xuyên và kịp thời.
Di sản kiến trúc đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn duy trì phát triển với việc cải thiện môi trường sống khu bảo tồn di sản, phố cổ, làng cổ. Việc bảo tồn di sản kiến trúc chưa được triển khai theo một quy hoạch. Quy hoạch chưa đi trước, chưa lập được kế hoạch dài hạn nên thường bị động. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa quy hoạch bảo tồn di tích với quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng các xã ở nông thôn, dự án phát triển kinh tế – xã hội của các ngành khác trên cùng địa bàn, nên chưa tạo được cơ sở bền vững cho các di sản.
Đội ngũ những người làm công tác bảo tồn kiến trúc trong cả nước còn thiếu về số lượng, tính chuyên nghiệp chưa cao, lúng túng trong việc xử lý những vấn đề phức tạp do thực tiễn đặt ra, làm ảnh hưởng đến chất lượng bảo tồn và tôn tạo di tích kiến trúc, thậm chí làm sai lệch, biến dạng tính nguyên gốc của di tích.
Bảo tàng kiến trúc ở nước ta, nhìn chung còn rất ít, khá lạc hậu nghèo nàn hiện vật. Công tác trưng bày, trang thiết bị kỹ thuật bảo quản tài liệu, hiện vật, trong phương pháp quản lý và vận hành của bảo tàng kiến trúc các thời kỳ cổ đại, trung đại và hiện đại còn hạn chế, làm cho bảo tàng kiến trúc chưa phải là điểm đến hấp dẫn đối với công chúng.
Hoạt động lý luận kiến trúc, lý luận về quy hoạch những năm gần đây đặc biệt sau 1991 có phần chững lại, lý thuyết về mô hình phát triển đô thị, khu nhà ở đô thị chưa đáp ứng được nhiều câu hỏi của đời sống sau đổi mới, còn xa rời thực tiễn mong muốn. Lý luận và mỹ học kiến trúc trước đây đã không còn phù hợp nhưng chưa được nghiên cứu và phát huy tương xứng với vai trò trong giai đoạn mới và trong thập kỷ tới. Hoạt động phê bình kiến trúc mờ nhạt có biểu hiện tụt hậu so với phát triển tốc độ cao và đa dạng kiến trúc Việt Nam, thực hiện chưa tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh thị hiếu và đồng hành với sáng tác kiến trúc. Hàm lượng khoa học và tính chuyên sâu của phê bình kiến trúc bị xem nhẹ; Xuất hiện lối phê bình cảm tính, hời hợt chưa đủ thuyết phục bởi thiếu một hệ thống tiêu chí có tính khoa học để đánh giá tác giả và tác phẩm đặc thù như kiến trúc. Đội ngũ lý luận, phê bình vừa rất thiếu, vừa bị hụt hẫng thế hệ, phân bố không đều ở các ngành địa phương. Thiếu định hướng và tiêu chí cụ thể cho việc kế thừa và phát huy các giá trị kiến trúc bản địa, tiếp thu giá trị khoa học, kinh nghiệm về kiến trúc quốc tế và những tiến bộ văn minh nhân loại. Đặc biệt, những quan điểm sáng tác lỗi thời không được phê phán, không cổ vũ tôn vinh sự đổi mới trong kiến trúc.
Mô hình thể chế kiến trúc sư trưởng đã bãi bỏ nhưng chưa được thay thế hoặc đổi mới thể chế này. Mặc dù hiện nay đang thiếu một chuyên gia quản trị kiến trúc khu phố, đường phố. Lực lượng cán bộ quản lý kiến trúc ở đô thị, nông thôn, ở các địa phương còn yếu; Thiếu những người có kinh nghiệm và kiến thức để soạn thảo Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc cảnh quan. Tình trạng buông lỏng quản lý, thiếu cơ chế phối hợp trong quản lý hoạt động xây dựng, cải tạo, không có thiết kế, không phép, sai phép còn để kéo dài.
Hội Kiến trúc sư ở Trung ương và các địa phương chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, còn lúng túng trong việc tập hợp và phát huy tài năng tiềm năng của đội ngũ. Đáng chú ý là thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý kiến trúc, quy hoạch cấp bộ và các tỉnh, thành phố. Hoạt động về trao đổi kinh nghiệm quản lý, nghề nghiệp kiến trúc còn thiếu tính chủ động, chưa tạo được nguồn lực, tài chính để hoạt động và mở rộng hợp tác, giao lưu.
Mạng lưới các trường đào tạo kiến trúc sư phát triển nhanh, nhưng chất lượng thấp, chưa đồng đều. Thiếu đội ngũ giáo viên, giảng viên có trình độ chuyên môn cao. Những giảng viên được đào tạo cơ bản ở nước ngoài trước đây đã lớn tuổi và nghỉ hưu nhiều, giáo viên có trình độ cao của một số trường chiếm tỷ lệ rất thấp. Thiếu một chính sách lâu dài, cơ bản và cơ chế đặc thù trong việc đào tạo tài năng, năng khiếu sáng tác kiến trúc. Hệ thống các cơ sở vật chất cho hoạt động sáng tác kiến trúc như xưởng vẽ, xưởng mô hình của các trường nhìn chung vẫn ở tình trạng chắp vá, tuy tiện thiếu đồng bộ và hiệu quả sử dụng còn thấp. Công tác đào tạo kiến trúc sư chưa được đổi mới. Nội dung chương trình giảng dạy còn chậm được cải tiến. Việc đào tạo sau đại học, thạc sĩ, tiến sĩ còn tràn lan, trình độ chưa tương xứng với bằng cấp, chưa coi trọng đào tạo chuyên gia làm công tác nghiên cứu, lý luận, phê bình và đào tạo lại cho các chuyên gia đã kinh qua công tác.
Đầu tư của ngân sách nhà nước cho nghiên cứu kiến trúc còn rất thấp. Việc huy động các nguồn vốn khác để phát triển kiến trúc theo hướng bền vững, tiết kiệm, truyền thống rất hạn chế do chính sách khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực.
Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ cập các tri thức về định hướng kiến trúc chưa làm được nhiều và còn thiếu những biện pháp thiết thực và rất bị động. Nhà nước còn thiếu cơ chế tạo điều kiện để cho dân tham gia vào quá trình tạo lập, phát triển kiến trúc và bảo vệ môi trường sống.
Nước ta đã phải trải qua một thời kỳ dài kinh tế chậm phát triển, trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất còn yếu, cùng với nền kinh tế kém hiệu quả, bị tác động bởi cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã làm cho kiến trúc của nước ta phát triển ở mức thấp, tụt hậu khá xa so với những nước phát triển. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế bên cạnh những tác động tích cực to lớn đã bộc lộ những mặt trái tiêu cực. Sự phát triển chạy theo lợi nhuận thuần tuý đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn các giải pháp kiến trúc có chất lượng cao. Nước ta chưa có trình độ khoa học và công nghệ đủ mạnh về kết cấu, chế tạo vật liệu, có khả năng đáp ứng cho sáng tác kiến trúc hiện đại. Những hạn chế này làm hạn chế một phần về điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết cho kiến trúc hiện đại phát triển.
Định hướng LLPB phù hợp phát triển kiến trúc đến năm 2030 sự cần thiết của thực tiễn xây dựng hiện nay
Công tác LLPB phù hợp với Điều chỉnh (Dự thảo do Vụ Quy hoạch – Kiến trúc đề xuất năm 2013 – TS KTS Lê Đình Tri chủ trì) định hướng kiến trúc Việt Nam phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2030 là kết quả đổi mới, tổng hợp đảm bảo phục vụ thiết thực, hội nhập tích cực, thuận tiện cho mọi tầng lớp nhân dân cũng như tổ chức chính quyền trung ương, địa phương có thể quản lý, chỉ đạo và thực hiện.
Kiến trúc hiện đại về hình thức và nội dung sử dụng, trong tổ chức không gian, vật liệu xây dựng mới; Tiết kiệm đất đai, năng lượng sử dụng; ứng dụng các thành tựu khoa học của thời đại vào trong kiến trúc để có khả năng thích ứng với điều kiện khí hậu thay đổi.
Kiến trúc mới góp phần tạo dựng nếp sống văn minh ở đô thị và nông thôn; hội nhập quốc tế và khu vực;
Kiến trúc trong thời kỳ đổi mới phát triển trong sự kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp trong kiến trúc truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn di sản kiến trúc lịch sử văn hoá, khai thác các các giá trị tốt đẹp của kiến trúc truyền thống, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của kiến trúc các dân tộc anh em. Xây dựng kiến trúc mới không nệ cổ, nhại cổ, không bắt chước sao chép tùy tiện, đi đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa kiến trúc thế giới, làm phong phú thêm cho kiến trúc Việt Nam để bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của giới kiến trúc sư và giới nghệ thuật tạo hình, các nhà kỹ thuật. Tập trung nghiên cứu áp dụng hiệu quả cái mới, đào tạo tài năng kiến trúc, nghệ thuật; Tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều tác phẩm kiến trúc có chất lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại. Nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về lý luận, phê bình kiến trúc và thực tiễn việc xây dựng phát triển kiến trúc Việt Nam hiện đại, tiên tiến, giàu tính bản địa, chất liệu vùng miền trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ứng dụng thành tựu khoa học mới trong xây dựng công trình kiến trúc; Gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển kiến trúc tham gia tích cực vào việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của đất nước.
Phát triển kiến trúc hiện đại, công năng thích hợp với đối tượng, tiện nghi cho con người ngày càng cao, không gian sử dụng linh hoạt. Áp dụng công nghệ hiện đại trong thiết kế, tính toán việc sử dụng vật liệu, kết cấu, thiết bị công trình, kỹ thuật thi công và an toàn công trình. Thể hiện được hình ảnh về văn hoá, phong tục, tập quán, lối sống Việt Nam kết hợp với yêu cầu sáng tạo, tiện dụng, thẩm mỹ của thời đại.
Công trình kiến trúc xanh, đáp ứng yêu cầu sinh thái, góp phần bảo vệ môi trường, không khí, trong đất, và nguồn nước, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước dùng cho sinh hoạt và sản xuất. Có khả năng chủ động sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng khác của tự nhiên như nắng gió, địa nhiệt… Giảm tối đa khí thải, chất thải vào môi trường; tạo nhiều khả năng phân loại để vận chuyển tái chế chất thải.
Kiến trúc mang sắc thái truyền thống, mang đặc điểm có chọn lọc trong kiến trúc dân tộc Việt Nam, nhấn mạnh đặc điểm vùng miền và văn hóa bản địa. Thích ứng khí hậu trong điều kiện văn hoá vùng miền, phù hợp điều kiện kinh tế kinh tế – kỹ thuật của địa phương.
Kiến trúc công trình đa dạng, hài hòa:
Kiến trúc các loại nhà, công trình kỹ thuật, nghệ thuật, khu tượng đài, cảnh quan, quảng cáo, các không gian công cộng, công trình sản xuất xây dựng theo quy hoạch xây dựng được duyệt; Chỉnh trang, cải tạo kiến trúc khu vực phải theo đồ án thiết kế đô thị.
Yêu cầu xây mới các công trình kiến trúc phải tạo nên hình ảnh thống nhất, hài hòa trên các tuyến phố cũng như tổng thể đô thị. Hài hoà giữa các yếu tố tạo nên kiến trúc đô thị như: vật liệu, màu sắc, chi tiết trang trí; đảm bảo trật tự chung, hoà nhập với cảnh quan khu vực.
Mỗi đô thị phải tạo dựng nét đặc trưng về văn hóa, khí hậu tự nhiên, đặc điểm vùng miền. An toàn, bền vững trong quá trình sử dụng, thích hợp cho mọi đối tượng khi tiếp cận các công trình kiến trúc đô thị.
Đảm bảo sự thống nhất, hài hoà về hình thức của các công trình kiến trúc ở trên từng khu vực hiện hữu. Tôn trọng các yếu tố kiến trúc truyền thống, đặc điểm, khí hậu địa phương, phong tục, tập quán và bảo vệ cảnh quan, môi trường. Không chấp nhận việc thiết kế, xây dựng công trình lai tạp hình thức, xuyên tạc, làm sai lệch chuẩn mực truyền thống hoặc lạm dụng ngôn ngữ kiến trúc truyền thống./.
KTS Lê Đình Tri