22/02/2016

Quy hoạch TP.HCM – Từ quá khứ đến tầm nhìn tương lai

Nhân dịp đầu xuân mới 2016, PGS.TS. Nguyễn Hồng Thục đã dành cho Tạp chí KTVN cũng như bạn đọc tạp chí những chia sẻ, góc nhìn riêng của mình về những nét phát triển cơ bản của TP.HCM qua các chặng đường quy hoạch đã qua. Từ đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá và gợi mở về một hướng đi cho thành phố Hồ Chí Minh trong thời điểm tiếp theo. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

TP. Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất nước, là Trung tâm kinh tế với tỉ trọng 29% GDP toàn quốc, là đầu mối giao dịch thương mại quốc tế, đồng thời cũng là Trung tâm văn hóa chính trị hàng đầu của VN. Trong tương lai vai trò và vị thế của TP Hồ Chí Minh đối với khu vực, đối với thế giới còn to lớn và quan trọng hơn rất nhiều. Theo một số chuyên gia nước ngoài: TP. Hồ Chí Minh có tầm cỡ về tiềm năng như Tokyo, Thượng Hải hoặc Bombay. Bởi trong tương lai khi nền kinh tế Việt Nam có nền kinh tế thị trường vững mạnh trên trường quốc tế thì TP Hồ Chí Minh với vị trí ngã tư đường của phía Đông thế giới – điểm giao dịch quá thuận lợi giữa Đông – Tây – Bắc trong bối cảnh một Đông Nam Á mang tính toàn cầu hóa cao sẽ là một vị trí vô cùng quan trọng.

Không gian khu trung tâm hiện hữu Tp. Hồ Chí Minh

Không gian khu trung tâm hiện hữu Tp. Hồ Chí Minh

Điểm qua các mô hình không gian chủ đạo của thành phố để nhìn thấy cuộc sống đô thị như một cỗ xe vĩ đại cứ thế lăn bánh không một sức mạnh nào có thể cản lại được. Vì vậy, vấn để chính là phải lái cỗ xe đó đi đúng hướng vượt qua một số những vấn đề còn tồn tại để tránh tình trạng sa vào một mô hình đô thị phi danh tính với nhiều hạn chế.

Các mốc quy hoạch và tư tuởng chủ đạo
Tiền thuộc địa:
Giai đoạn 1859 – 1865, các công binh Pháp và các đô đốc hải quân lần đầu tiên thiết lập chương trình “Các công trình mới” trên một bản quy hoạch nhằm xác định địa điểm xây dựng các công trình chiến lược hồi đó. Việc làm này đã được các chuyên gia cho rằng “Các đô đốc hải quân Pháp đã tách một hạt ngọc thoát khỏi vỏ bọc đất đá của nó” bởi đã xác định hai tuyến trung tâm chính: Tuyến quân sự dọc theo sông Sài Gòn và rạch Thị Nghè và nối tiếp với các khu đầu não trên những mô đất cao ngay dưới chân thành cũ. Tuyến thương mại là các khu vực thấp tiếp giáp bờ sông, bắt đầu từ 1861 đã có những hãng đầu tiên thành lập như Delfin Henry… Đây chính là cốt lõi của những quy họach sau này. Đến tháng 11/1861 toàn quyền Bonnard đã chỉ thị cho sĩ quan Coffyr thiết lập quy hoạch sát nhập Sài Gòn và Chợ Lớn với quy mô 500.000 dân cư trú. Chính quy hoạch này đã xác định các cấu trúc cơ bản đầu tiên của thành phố với hệ thống các ô bàn cờ thẳng góc, không phân cấp đường xá và hình thành không gian công cộng độc nhất là quảng trường quân sự phía Bắc được bao bọc bởi sông Sài Gòn và nhiều con rạch – kiểu thành phố phòng thủ. Trục đường đi qua khu sình lầy Boresse ở rạch Bến Nghé trở thành trục chính nối Sài Gòn với Chợ Lớn (Trần Hưng Đạo ngày nay).
Thời thuộc địa:
Tháng 6/1923 KTS He’brard được bổ nhiệm đứng đầu Văn phòng quy hoạch Sài Gòn lập quy hoạch bổ xung thêm hệ thống các quảng trường và chỉnh sửa những điểm giao cắt lớn có vòng xoay nhằm nâng cấp bộ mặt đô thị. Quy hoạch này không thực hiện được do thiếu kinh phí, nhưng đã để lại toàn bộ các công trình thuộc phong cách “Kiến trúc Đông Dương” nổi tiếng ở Sài Gòn. Kts He’brard đã nhìn nhận thành quả đô thị dưới thời Đô đốc – Toàn quyền thời tiền thuộc địa “các kênh lấp cũ đã cho ra đời những đại lộ tuyệt đẹp, không gian kiến trúc khu trung tâm Sài Gòn không thua gì một số ví dụ thành công nhất của thế kỷ 18 ở Pháp, với những đại lộ rộng trồng cây xanh và với những công trình đồ sộ như dinh Norodom khống chế một tầm nhìn cảnh quan bao la”.
Năm 1940 – 1954 Toàn quyền Decoux cử hai kỹ sư Pugnaire và Cerutti lập quy hoạch Sài Gòn – Chợ Lớn nhằm xây dựng 4 khu cư xá chính với 25.000 căn nhà cho 150.000 nhân khẩu (1/3 dân số lúc đó) để dãn dân từ trung tâm ra (khu cư xá Phú Thọ ở Chợ Lớn có quy mô 30 ha cho 10.000 dân, khu Bàn Cờ, khu Chánh Hưng và khu trung tâm). Những năm sau đó, mặc dù dân số tăng mạnh (500.000 dân năm 1946 và 1,6 triệu dân năm 1954), nhưng công cuộc đô thị hóa do bốn khu vực dân cư đó đã xác định ranh giới và cấu trúc chính của thành phố. Năm 1943 quy hoạch Sài Gòn đã hoàn chỉnh với các định hướng chính: Phía Tây – Phát triển công nghiệp, phía Đông Bắc – Phát triển nhà ở và khu dân cư, phía Nam – Phát triển cảng và kho bãi. Các định hướng này có cơ sở thực tiễn và tầm nhìn cho đến bây giờ.
Philippe Franchini đã diễn đạt về cuộc sống của Sài Gòn thời kỳ bấy giờ “ Sài Gòn có một lối sống đầy cảm quan nhưng không sa đà đam mê, năng động nhưng không vội vã thái quá, phi đạo đức nhưng không đồi bại bệnh hoạn, vô tổ chức nhưng thừa khả năng đối kháng các lực nhằm phân rã bản thân nó”.
Giai đoạn Việt Nam cộng hòa (1960 – 1975)
Cuối 1961, sự kiện 16.300 cố vấn Mỹ đến Sài Gòn đánh dấu sự bắt đầu của chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh gay gắt diễn ra khắp miền Nam Việt Nam, khiến cho bộ phận dân cư không nhỏ chạy vào Sài Gòn tìm cơ hội sống. Trong thập niên 1964 – 1974 dân số thành phố nhảy vọt từ 2,2 triệu lên 4 triệu. Điều này tác động lớn đến cấu trúc thành phố.
Năm 1960 chính quyền lúc bấy giờ giao cho KTS Ngô Viết Thụ làm quy hoạch tổng mặt bằng Sài Gòn – Chợ Lớn. Quy hoạch này nhấn mạnh không gian của khu vực giữa Sài Gòn – Chợ Lớn với khu dân cư cao tầng có quy mô khổng lồ dạng đường răng hoặc hình dài thẳng tắp theo phong cách quốc tế. Nhưng kế hoạch đó đã thất bại do không đủ vốn cho cơ sơ hạ tầng kỹ thuật trong thời chiến (cũng như quy hoạch của He’brard vậy).

Trước năm 1972, các chuyên gia Mỹ và Tổng cục Gia cư đưa ra năm phương án quy hoạch định hướng cho thành phố Sài Gòn để lựa chọn qui mô và hướng phát triển chủ dạo của không gian thành phố trong tương lai. Đây là mô hình đô thị dạng Doxiadis lập cho 10 triệu dân trong tương lai vốn mới mẻ trên thế giới vì dựa vào lý thuyết của các siêu đô thị (Nguồn: GS Trương Quang Thao):
• Giải pháp đồng tâm (Ring System Alternative – Cụm đô thị).
• Giải pháp hướng tâm theo dạng tia (Radial System Alternative – Lan tỏa hình sao).
• Giải pháp lưỡng trục thiên Bắc (Axial System Northwards Alternative).
• Giải pháp lưỡng trục thiên Nam (Axial System Southwards Alternative).
• Hình thái phát triển dựa vào thực tiễn thành phố với trọng tâm chính là phát triển Bán đảo Thủ Thiêm – Mô hình phái sinh của Dynapolis. Có thể đưa ra các nhận định về thời kỳ quy hoạch này:
Các phương án quy hoạch này đều nhằm mục tiêu tìm hướng phát triển mới cho thành phố đã quá tải và lựa chọn mô hình đô thị tiên tiến nhất thời bấy giờ, cho một tầm nhìn dài hạn 50 năm sau. Đáng tiếc do chiến tranh nên chưa có sự lựa chọn phương án chính thức và thành phố tiếp tục nhích dần theo mô hình của phương án 5 – mô hình động, cũng tức là mô hình chưa ổn định, nhưng còn khả năng thích ứng với các tình huống mới của thực tiễn.
Vì kênh rạch và vùng đất trũng nằm phía Nam nên dường như các giai đoạn trước đến trước 1975, thành phố phát triển chủ yếu về hướng Bắc và sát nhập dần các làng của tỉnh Gia Định cũ. Sau đó là về phía Tây và Tây Bắc, hạn chế tối đa lựa chọn phát triển về phía Nam là vùng đất thấp và nơi thoát triều của Sài Gòn.
Vấn đề đô thị trong giai đoạn 1954 – 1975 là một di sản nặng nề cho phát triển sau chiến tranh. Khủng hoảng về hạ tầng, nhà ở và các nguồn vốn cho đô thị, các khu dân cư thiếu điện, thiếu nước, thiếu trang thiết bị vệ sinh và y tế cộng đồng trong khi các luồng nhập cư mới từ Bắc vào và lân cận tăng không ngừng nghỉ làm cho thành phố ngày càng trở nên ọp ẹp và quá tải.
Giai đoạn sau 1975
Bản qui hoạch năm 1998:
Sau năm 1985, dưới tác động của chính sách đổi mới trên thực tế thành phố phát triển mạnh về phía Tây và Tây bắc với dòng người di cư đến từ phía Bắc vào và các tỉnh lân cận đến. Đồ án “Quy hoạch chung thành phố đến 2020” thời kì này được phê chuẩn năm 1998. Sau nhiều lần nghiên cứu thay đổi, quy hoạch này định hướng cho thành phố phát triển về phía Nam và Đông Nam, mặc dù còn có một số khó khăn về đầu tư cơ sở hạ tầng do nơi đấy là các khu rừng sinh thái ngập nước và đất quá trũng. Các khu đô thị Phú Mỹ Hưng, quận 4, Nhà Bè… lần lượt ra đời theo định hướng quy hoạch này. Một lý do để giải thích cho định hướng trên đây là vùng sát thành phố mẹ nên gắn kết nhanh, quĩ đất lớn lại đền bù rẻ do chưa ai khai thác. Đến nay, chúng đã góp phần xây dựng diện mạo mới cho thành phố, thành công về tổ chức khu dân cư văn minh, giàu tính nhiệt đới tại Phú Mỹ Hưng rất to lớn. Nhưng cũng gặp phải một số khó khăn cần giải quyết về thoát nước cho khu vực đô thị cũ, định hướng quá trình đô thị hóa một cách hài hòa với bản sắc đã có và phát triển đô thị bền vững.
Bản quy hoạch đô thị năm 1998 đã lựa chọn hướng phát triển mới thiên về phía Nam. Khu vực nam Sài Gòn sau hơn 20 năm phát triển đã trở thành cấu trúc đô thị lớn gấp nhiều lần so với không gian đô thị cũ trước đây.
Bản quy hoạch năm 2006:
Thành phố thông qua Quy hoạch điều chỉnh phát triển đến 2020, quy hoạch này quyết định thành phố sẽ phát triển theo hướng mở, phi tập trung, đa trung tâm, kết hợp giữa lan tỏa và phát triển theo tất cả các nhánh dọc các trục giao thông lớn, có hệ thống đô thị vệ tinh làm đối trọng. Hướng phát triển chính của thành phố là phía Đông Bắc là Thủ Đức, Thuận An (Bình Dương), Biên Hòa (Đồng Nai), phía Nam là Nhà Bè, Bình Chánh, ra biển là Cần Giờ. Hướng phụ là Tây Bắc Hóc Môn, Củ Chi. Dân số dự kiến đến năm 2020 là 10 triệu người (trong đó 6 triệu nội thành và 2 triệu khách vãng lai, 2 triệu ngoại thành).
Điều đổi mới là trong quy hoạch này có đề cập đến quy hoạch cảnh quan kiến trúc đô thị và quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật một cách đồng bộ. Quy hoạch này chứng tỏ sự chấp nhận cơ thể tự phát vốn có trong giai đoạn bùng nổ dân số vừa qua để tìm mô hình mới. Nhưng có phần “động” về mô hình không gian, cấu trúc, sự thích ứng điều kiện thực tế, đặc biệt là mô hình nền kinh tế đô thị để lựa chọn phát triển khu dân cư tương ứng với không gian kinh tế.
Ngày 15/01/2007, Viện quy hoạch TP.HCM đã tổ chức hội thảo góp ý cho “Điều chỉnh QH chung xây dựng TP.HCM đến 2025” theo nội dung nhiệm vụ, đã được thành phố phê duyệt ngày 6/12/2006 trên cơ sở một phần của nội dung đồ án quy hoạch năm 2006.
Bản Quy hoạch điều chỉnh năm 2010: Tháng 1 – 2010, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025 với diện tích 2.095km2. TP.HCM sẽ trở thành “đô thị đặc biệt, trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước; đầu mối giao lưu quốc tế; trung tâm công nghiệp, dịch vụ đa lĩnh vực của khu vực và Đông Nam Á”, một đô thị trung tâm đa chức năng. Bản quy hoạch này đã tiếp nối và dựa vào thành công của khu Phú Mỹ Hưng – là hệ quả trực tiếp của việc thiết lập khu chế xuất Tân Thuận tại Nhà bè đánh dấu sự tiến xuống phía Nam đổi mới.
Trong lần điều chỉnh này, hướng phát triển vẫn là chùm đô thị, đa tâm và phát triển trên tất cả các hướng. Và lần đầu tiên thành phố được đặt trong mối quan hệ của lý thuyết vùng đô thị: TP. HCM – Đồng Nai – Bà Rịa – Vũng Tàu – Bình Dương – Bình Phước – Tây Ninh – Long An và Tiền Giang. Chọn mô hình TP ở quy mô dân số 10 triệu (Nội thành cũ mới là 7,4 triệu), nhấn mạnh đến các yêu cầu cơ bản của quy hoạch hạ tầng kỹ thuật: cao độ khống chế ngập lụt, sạt lở đất, tôn nền bổ xung cho độ lún sâu 50 năm, tách các trục giao thông chính ra khỏi dân cư. Vấn đề triều cường và ngập lụt cũng được tính toán, nhưng biến đổi khí hậu nhanh chóng cùng một vài các yếu tố khác đang làm nó phải đối phó trước thực tế gia tăng ngập lụt nặng nề.

Phát triển TP.HCM như thế nào trên những lợi ích và thách thực hiện nay? Cần một nghiên cứu hệ thống khác với công cụ quy hoạch đang hiện hành

Khi thành phố xác lập hướng phát triển mới về phía Nam và tạo ra sức sống mới cho đô thị, bất động sản, tích tụ dân số trung lưu, kết nối hạ tầng…cũng chính là tạo không gian kinh tế hiện đại. Các hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra nhiều tại trung tâm phía Nam kết nối Sài Gòn với quốc tế, gia tăng giá trị đất đai từ đầm lầy thành đất đô thị cao cấp. Là bài học phát triển đô thị dựa trên nền tri thức toàn diện từ Chiến lược, Quy hoạch, Thiết kế, Đầu tư, Quản lý và Khai thác cho tất cả các mô hình đô thị Việt Nam.
Nhưng cũng phải nhìn nhận những tác động tiêu cực của rủi ro gây ngập lụt cho TP mẹ khi đô thị tạo ra bê tông hóa hàng chục ngàn ha, đi ngược lại qui luật của tự nhiên có thể gây lún TP mẹ và hư hỏng kết cấu hạ tầng của TP do nhiễm phèn ngầm. Đô thị hóa và phát triển nóng thị trường BĐS thời gian qua trong một số trường hợp cụ thể nếu không được kiểm soát thật tốt trong tương lai có thể dẫn đến sự mất bình đẳng khi dân nghèo không còn khả năng tiếp cận được đô thị cả về nhà ở và không gian công cộng, không gian mở ven sông Sài Gòn.
Khu trung tâm lịch sử của TP. HCM chưa có Quy hoạch bảo tồn và cải tạo bài bản có thể dẫn đến một số tình trạng phát triển căn bệnh “đầu to”, sự phá vỡ cấu trúc lan vào khu trung tâm quận 1,3 và quận 5. Quy hoạch mới cần có sự chuyển hóa các mô hình quy hoạch đã trong lịch sử cho một mô hình quy hoạch mang bản sắc riêng trong tương lai. Hơn bao giờ hết, thành phố cần một qui hoạch Bảo tồn chỉnh trang Trung tâm lịch sử 300 năm của mình.
Việt Nam đang được vào danh sách các nước đang phát triển và có xu hướng đô thị hóa nhanh nhất Đông Nam Á, trong đó TP. HCM sẽ trở thành siêu đô thị vào 2030. Hiện nay số lượng việc làm, tiện nghi và tiện ích đô thị, dịch vụ công cộng thành phố chỉ là giới hạn, trong khi dòng người đổ về đô thị ngày càng đông và phức tạp làm gia tăng áp lực cho đô thị. Do đó công việc quy hoạch cho Sài Gòn tương lai cần liên tục không ngừng nghỉ.
Một câu hỏi lớn đặt ra trong thời gian tới cho quy hoạch TP. HCM, phải chăng sau khi được quan tâm quy hoạch vào bậc nhất trong cả nước ở nhiều thời kỳ lịch sử, thành phố có tránh được việc đánh mất cấu trúc của chính mình để trở thành một thành phố phi danh tính với dạng chùm đô thị, dính vào nhau theo các trục giao thông lớn, tuyến tính rất đáng ngại theo lý thuyết quy hoạch?

PGS.TS. NGUYỄN HỒNG THỤC

Tạp chí Kiến trúc Việt Nam