12/03/2018

Những khoảng trống và lặng trong công tác lý luận phê bình kiến trúc

Lâu nay, công tác Lý luận và Phê bình kiến trúc (LL&PBKT) thường được lên tiếng, vào cuộc…Khi các vấn đề của xã hội, của ngành xây dựng…xảy ra các dư luận, nhận thức trái chiều hoặc các sự cố, thậm chí là thảm họa từ thiên tai và nhân tai. Đó có thể là những sự cố, rủi ro xảy ra  từ  những tác động bởi quy hoạch, kiến trúc, xây dựng, công trình xây dựng…Phơi bày và bộc lộ các khiếm khuyết từ quản lý, thiết kế đến chất lượng thi công xây dựng. Đó có thể là những vấn đề xã hội học như quyền sở hữu, trách nhiệm của các chủ thể liên quan, nhận thức đa chiều của xã hội, sự tham gia của cộng đồng xã hội, các khái niệm về khen chê, tốt xấu, đẹp và chưa đẹp…Chỉ rất ít và hầu như bỏ ngỏ công tác LL&PBKT trong các lĩnh vực có tính dẫn đường, dẫn hướng cho các hoạt động triển khai như  Nghiên cứu khoa học (NCKH) bao gồm từ xây dựng và phê duyệt đề cương nhiệm vụ đến triển khai thực hiện thông qua các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, xin ý kiến chuyên gia; Các công tác phản biện và nghiệm thu tại Hội đồng các cấp; Các công tác truyền thông cũng như công bố đưa vào áp dụng, vận dụng trong thực tiễn. Đây là một khoảng trống lặng không bình thường, bởi lẽ công tác NCKH nói chung là lĩnh vực tiêu tốn không ít tiền của ngân sách Nhà nước, nhưng hiệu quả chất lượng, giá trị để đưa vào thực tiễn là một dấu hỏi lớn đặt ra đối với các tổ chức KHCN, cá nhân…Và do đó LL&PBKT không thể đứng ngoài cuộc, chúng cần có tiếng nói, trước hết là để các cơ quan QLNN tiếp nhận, điều chỉnh, đưa ra các cơ chế, chính sách, quy phạm…có tính liên ngành, trở thành công cụ đắc lực trong quản lý, kiểm soát, vận hành…Hơn thế, giúp điều tiết xung đột lợi ích giữa các nhóm xã hội để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội; Góp phần khắc phục những khiếm khuyết của các kiến tạo chính sách, thể chế, qua đó nâng cao trách nhiệm xã hội của cộng đồng, phát triển ý thức về quyền và nghĩa vụ của người công dân, từng bước hình thành môi trường xã hội dân chủ, tiến bộ.

Đà-Nẵng

Thực tiễn của công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) đang tồn tại những hạn chế sau:

  1. Công tác xây dựng nhiệm vụ, thẩm định, phê duyệt và ký kết hợp đồng:

– Thông thường, NVKH thường được đặt ra theo: Đơn đặt hàng từ các Bộ, Ngành, Địa phương… hoặc phát hiện những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn của các tổ chức KHCN, các nhà khoa học…

– Hiện nay, vấn đề đó chưa thực sự rõ, cảm giác như bốc thuốc và thường đi sau, đi chệch với những yêu cầu của phát triển. Đó là chưa kể đến việc NCKH đòi hỏi phải có tính đồng bộ, quy hoạch theo lộ trình ngắn, trung hoặc dài hạn được hoạch định trên nền tảng, dữ liệu cập nhật, tích hợp của các tổ chức KHCN

– Quy trình thẩm định, xét duyệt, phê duyệt và tiến tới ký hợp đồng triển khai còn nặng về sự vụ hành chính, cơ chế xin cho, chưa thực sự dân chủ, bình đẳng và khách quan, chưa làm cho người làm công tác NCKH yên tâm và tiềm ẩn thui chột tâm huyết sáng tạo và cống hiến.

  1. Công tác thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm, xin ý kiến chuyên gia:

– Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm còn nặng nề hình thức, chưa được chú trọng đến nội dung có tính liên ngành, các vấn đề lớn và phức tạp đòi hỏi sự tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt vắng bóng các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cá nhân tự thân phát minh, sáng chế…

– Diễn ra hình thức chạy sô, chủ nghĩa hình thức và phe nhóm

  1. Công tác phản biện, nghiệm thu tại Hội đồng các cấp:

– Hội đồng nghiệm thu các cấp thường có thành phần có lợi cho NVKH, cho từ tổ chức, chủ nhiệm  của tổ chức KHCN. Trọng tình hơn lý, hơn bản ngã của khoa học, dĩ hòa vi quý; Hình thức vỗ tay kiểu “ Con hát mẹ khen hay” và ngược lại. Dẫn tới chất lượng khoa học thấp kém. Khả năng đóng góp cho thực tiễn trong mọi sự phát triển ít khả dụng, khả thi.

– Né tránh những nhà khoa học chính trực, có chuyên môn, tâm huyết. Đánh đồng lẫn lộn giữa tốt xấu, trắng đen…

  1. Các cơ quan quản lý Bộ, Ngành, Hội nghề nghiệp:

– Cần xem lại quy trình, quy định, khả năng phối hợp từ các Bộ, Ngành, Địa phương trong các NVKH  mang tích chiến lược như mục tiêu, trọng điểm, quốc gia… đòi hỏi tính hàn lâm, thực tiễn và nhanh chóng đưa ra kết quả.

– Sửa đổi lại các quy định có tính liên Bộ giữa Bộ KHCN và  Bộ Tài chính về chính sách, chế độ, nghĩa vụ…cho cán bộ làm công tác NCKH thông qua công lao động, hình thức khoán (chuyên đề), các vấn đề về chứng từ trong giải ngân – Không nên cứng nhắc với giờ làm việc, vượt khung giờ làm thêm… Bởi với sản phẩm khoa học là vô giá, đặc thù…Có vậy mới phát huy, khai thác được sự đóng góp, sức sáng tạo của người làm khoa học.

– Mềm dẻo và linh hoạt hơn trong tiến độ và kế hoạch phân bổ kinh phí, không nên chạy theo tiến độ kế hoạch hoặc giải ngân (hoàn thành kế hoạch) trong khi chất lượng không đảm bảo và ngược lại NVKH, sản phẩm  NCKH  nếu được làm tốt, cần theo hình thức khoán trọn gói.

– Trong khi nhiều sản phẩm NCKH cho vào tủ, không có khả năng áp dụng – Thì các nghiên cứu xây dựng lĩnh vực QC-TC, một hình thức  quy phạm dưới luật, phải được công bố áp dụng, vận dụng thì lại thiếu đầu tư, xem nhẹ và dẫn tới tình trạng luôn phải sửa đổi, chưa bao giờ trở thành công cụ QLNN đúng nghĩa.

  1. Công tác truyền thông, công bố sản phẩm NCKH:

– Việc đăng tải các thông tin có liên quan đến các NVKH, nội dung và các kết quả của đề tài NCKH thực sự phải được cập nhật thường xuyên, được trao đổi rộng rãi qua các kênh chuyên đề, phóng sự, phỏng vấn của các kênh trên Đài Truyền hình, Tạp chí khoa học chuyên ngành, Website… Chúng phải được những người làm công tác quản lý trong Ban biên tập đủ và dư trình độ để kiểm soát, thẩm định…Tránh sự can thiệp duy ý chí chủ quan, làm méo mó giá trị từ nội dung đến kết quả của nghiên cứu và đề xuất.

– Bất luận một sản phẩm KHCN nào đều cần phải được công bố dưới các hình thức  truyền thông khác nhau, giống như một tác phẩm, một ấn phẩm…Có vậy, mới biết được giá trị của chúng với xã hội, được thừa nhận hoặc phê phán khách quan, đó cũng chính là thước đo cần có nhằm điều chỉnh, điều tiết để hướng tới việc trật tự, lành mạnh, dân chủ và anh minh trong KHCN./.

Một vài sẻ chia như vậy trong hội thảo với  thực sự mong muốn có một môi trường và thị trường KHCN ở Việt Nam nói chung và Ngành Quy hoạch, Kiến trúc và Xây dựng nói riêng luôn được hoàn thiện, là chính mình, là một sân chơi không quá bị cô lập, phụ thuộc và ràng buộc bởi thể chế. Môi trường và thị trường đó, đang và rất cần sự sẻ chia và đóng góp của chúng ta ngồi đây./.

TS.KTS. Nguyễn Tất Thắng

Viện Kiến trúc Quốc gia – Bộ Xây dựng