Bài học kinh nghiệm từ các quy hoạch phát triển Sài Gòn – TP HCM
(Tạp chí Kiến trúc Việt Nam) – Không như thường hình dung, việc quy hoạch xây dựng phát triển Sài Gòn – TP.HCM thời cận – hiện đại diễn ra tiếp nối. Tuy nhiên vì rất nhiều lý do khách quan và chủ quan mà một số ý tưởng quy hoạch sáng tạo còn chưa được triển khai. Các ý tưởng này có thể là những kinh nghiệm quý báu trong công tác quy hoạch phát triển khi TP.HCM đã bước vào giai đoạn phát triển theo kinh tế thị trường và dần hình thành Vùng đại đô thị (VĐĐT), lõi trung tâm Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Coffyn và thành phố không tưởng 500.000 dân của các đô đốc Pháp
Đô đốc Bonard ngay từ năm 1862 đã đốc thúc trung tá công binh Coffyn lên phương án quy hoạch một thành phố mới. Một phương án đô thị mới ra đời, không hề đếm xỉa đến các đặc điểm vùng đất nhiều ao hồ, sông rạch, mà xây dựng hẳn một thành phố theo dạng chia ô bàn cờ, sáp nhập Chợ Lớn vào Sài Gòn với quy mô dân số dự kiến 500.000 dân. Thành phố chỉ đặt một quảng trường quân sự lớn ở phía Bắc và đào kênh vành đai nối liền hai rạch Bến Nghé và Thị Nghè – Nhiêu Lộc ngăn ngừa địch tấn công từ phía Tây. Phương án bị cho là không tưởng vì dự kiến một số dân quá đông và vượt quá khả năng thực hiện của người Pháp thời đó. Tuy vậy, phương án đã rút tỉa được kinh nghiệm quy hoạch các thành phố Alger (thuộc địa Pháp ở Bắc Phi) và Singapore (thuộc Anh), dự trù kế hoạch phân lô bán đất gây quỹ cho chính quyền thuộc địa, có phân khu chức năng rõ ràng với các khu hành chính, thương mại, công nghiệp và nhà ở riêng biệt.
Phương án trong thực tế tuy không thực hiện được nhưng đã làm cơ sở cho phát triển Sài Gòn những giai đoạn tiếp theo. Do sự kiện chính quyền thực dân chiếm đoạt các khu đất trung tâm béo bở bán cho tư sản châu Âu, Hoa, Ấn và đẩy người bản địa về phía bên kia rạch Bến Nghé, xuống phía Nam Sài Gòn, mà việc quy hoạch phát triển Sài Gòn khó chủ động, gây nạn đầu cơ đất đai kéo dài hàng thế kỷ.
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng người Pháp xem xét quy hoạch này nặng về phần phô trương quyền lực thực dân với trục đường hoành tráng, cửa nhà khang trang nhưng lại chưa xây dựng được hạ tầng kỹ thuật đô thị và nhất là đẩy người bản xứ vào các khu ở chật chội, lầy lội, thiếu vệ sinh. Nhà nghiên cứu Mỹ Gwendolyn Wright khi nghiên cứu về các đô thị thuộc địa Pháp cho rằng kiểu làm đó là lối “qui hoạch giả tạo” không giải quyết được các vấn đề cơ bản đô thị và mang tính phân biệt đối xử.
Đề xuất xây dựng một Sài Gòn hiện đại của nhà quy hoạch Hébrard
Theo quy chế thuộc địa Nam Kỳ, việc quản lý thành phố thuộc quyền thị trưởng và hội đồng thành phố. Hội đồng này thường bị tê liệt vì mâu thuẫn quyền lợi phe nhóm tư bản sừng sỏ và luôn dè chừng sự can thiệp của Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội. Bản thân Hội đồng cũng thường xung đột với Phòng Thương mại Sài Gòn có quyền lợi riêng của mình. Các nhà phân tích tình hình phát triển Sài Gòn thời cũ đều cho rằng thật sai lầm nếu giao việc quy hoạch phát triển đô thị cho hội đồng thành phố, vì rõ ràng họ vừa không am hiểu vấn đề, vừa dễ dàng bị chia rẽ vì quyền lợi phe nhóm. Điển hình là vụ xây cất dinh Xã Tây (Tòa thị chính) kéo dài đến 30 năm mới xong. Việc quyết định xây dựng nhà hát cũng kéo dài 5 năm. Còn chợ Bến Thành sỡ dĩ xây dựng được nhanh là do Toàn quyền Đông Dương trực tiếp can thiệp và các nhà thầu đã thu lợi lớn khi được độc quyền xây cất các dãy phố quanh khu chợ.
Tình hình quy hoạch đô thị ở Đông Dương chỉ được cải thiện sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) khi đạo luật Cornulet ra đời quy định việc chỉnh trang các đô thị chính quốc và thuộc địa. Kiến trúc sư và là quy hoạch nổi tiếng Hébrard được mời sang Đông Dương chỉnh lý các dự án quy hoạch đô thị, trong đó có Thành phối Sài Gòn. Ông thừa nhận rằng các đô đốc đã thực hiện nhiều công trình đồ sộ cho Sài Gòn, nào “lấp kênh rạch, tạo các đại lộ nguy nga… Quy hoạch trung tâm Sài Gòn gợi nhớ đến các phương án huy hoàng thế kỷ XVIII với đại lộ to rộng trồng cây, các dinh thự như dinh Toàn quyền khống chế cả một tầm nhìn lớn”. Nhưng theo ông thì Sài Gòn thiếu các quảng trường, đường sá không phân cấp, không có các nút giao thông cho đường ra vào thành phố.
Hébrard nhìn ra hướng phát triển công nghiệp và xuất khẩu của Sài Gòn, đã đặt trọng tâm vào việc hoàn chỉnh hệ thống kỹ thuật hạ tầng, chủ yếu là ga xe lửa và cảng sông, củng cố thêm phố thị Khánh Hội và Nhà Bè. Thiếu ngân sách, đụng chạm quyền lợi của giới độc quyền nhà đất cũng như xung đột nội bộ trong Nha Công chánh là những nguyên nhân làm cho đề xuất quy hoạch rất sáng tạo của Hébrard không thực hiện được ở Sài Gòn.
Sự thất bại của Hébrard chứng minh rằng chủ nghĩa thực dụng khó lòng dung hòa với các mô hình lý thuyết về quy hoạch xây dựng. Nó thường vấp phải giới cầm quyền thiển cận, giới tư bản chỉ nhìn thấy quyền lợi trước mắt.
Đề xuất kết nối hai cực phát triển Sài Gòn – Chợ Lớn của Cerutti và KTS Ngô Viết Thụ
Chính quyền thuộc địa Pháp nhận thấy cần thiết phải sáp nhập Chợ Lớn và Thành phố Sài Gòn vào năm 1930, nhưng có lẽ hai cực phát triển này vẫn chưa bao giờ nối kết lại được với nhau. Và lạ lùng thay, ý đồ đó cùng lúc được 2 nhà kiến trúc lớn, đều đạt giải lớn La Mã (Grand Prix de Rome, của Trường Mỹ thuật Quốc gia Pháp) là Cerutti và KTS Ngô Viết Thụ đề xướng.
Khi Cerutti đảm nhận Sở Quy hoạch đô thị Đông Dương ông phác thảo phương án xây dựng khu trung tâm hành chính mới, mong nối kết được Sài Gòn và Chợ Lớn. Kỹ sư Pugnaire là người hăng hái triển khai phương án này ở Sài Gòn. Phương án mang tên Cerutti – Pugnaire dự kiến di dời khu nhà ga ra khỏi trung tâm thành phố, xây cất tòa thị chính mới ngay tại vị trí chợ Bến Thành và thay thế khu nhà ga bằng những cao ốc thương mại, nối vào Chợ Lớn qua các trục lộ và cao ốc quy mô lớn. Sài Gòn sẽ có thêm nhiều công viên, sân bãi thể dục thể thao, khu thương mại, chợ, khu ở cao cấp lẫn bình dân. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu những năm 1930 và Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) cùng sự suy yếu của chính quyền thuộc địa không cho phép người Pháp thực hiện được phương án chỉnh trang đó.
Là người Việt Nam duy nhất đoạt giải Khôi nguyên La Mã vào năm 1955,ngay từ những năm tháng còn nghiên cứu ở Roma kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã đề xuất việc xây dựng một khu trung tâm hành chính mới cho chính quyền Sài Gòn, có tác dụng nối liền hai cực phát triển kinh tế Sài Gòn (cũ) và Chợ Lớn. Trong phương án công bố tại Sài Gòn năm 1960, ta nhìn thấy trung tâm đô thị mới với nhiều công trình quy mô lớn như dinh Tổng thống, các bộ sở, thư viện quốc gia, tượng đài anh hùng dân tộc… phân bố trên mảng cây xanh vườn cao su Phú Thọ.
Tuy vậy, phương án nhiều tham vọng đó đã vấp ngay với thực tế Sài Gòn thời tư bản, nơi mà các thế lực đầu cơ đất đai vẫn còn thắng thế. Dự án không thực hiện được một phần do công bố quá sớm, tạo ngay sự chiếm dụng đất để đầu cơ nâng giá. Lý do khác là thiếu phương tiện và tài chính do chính quyền Sài Gòn lúc đó đang lao vào cuộc chiến tranh lúc đó đang bắt đầu trở nên ác liệt.
Xác định hướng phát triển Sài Gòn với các ý đồ phát triển Thủ Thiêm của Hoàng Hùng, Doxiadis và WBE
Tìm kiếm hướng phát triển cho một thành phố ngày càng đông dân và phát triển năng động như Sài Gòn là việc làm cấp bách vào các thập kỷ 50 đến 70 của thế kỷ trước.
Suốt thời Pháp thuộc, các nhà quy hoạch Pháp đều loại bỏ hướng phát triển Sài Gòn về phía Đông, Nam hoặc Tây Nam là các vùng đất trũng thấp, làm nền móng rất tốn kém. Sài Gòn thời cũ sở dĩ không ngập úng là nhờ có các vùng đất trũng thấp này hứng nước. Hướng phát triển tự nhiên của Sài Gòn được xác định là hướng Bắc cao ráo. Tuy vậy, trước yêu cầu mở rộng Sài Gòn, bán đảo Thủ Thiêm nằm sát bên hông Sài Gòn luôn được nhắm tới.
Giữa những năm 1950, người Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã dồn sức vào việc xây dựng tuyến đường có lẽ vào hàng hiện đại nhất Đông Nam Á thời đó. Xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa dài 30km. Qua đó người ta đã xác định hướng phát triển chính của thành phố là lên phía Bắc, đất đai cao ráo và mở ra miền Đông Nam Bộ đầy tiềm năng công nghiệp. Ý đồ này đã được sự tán đồng của nhóm quy hoạch đô thị quốc tế Doxiadis.
Vào đầu thập kỷ 60, nhóm tư vấn quy hoạch đô thị nổi tiếng thế giới này được mời sang nghiên cứu phương hướng phát triển tương lai cho thủ đô Sài Gòn. Doxiadis là nhà lý luận quy hoạch Mỹ nổi tiếng với chủ trương tạo dựng các “trung tâm đô thị động” theo dạng tuyến chứ không hướng tâm hoặc vệ tinh kiểu cổ điển. Với Sài Gòn, ông chủ trương mở rộng cái lõi trung tâm đô thị về hướng Bắc, kẹp theo xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa. Thành phố như vậy sẽ phát triển trong không gian giữa 2 dòng sông Sài Gòn và Đồng Nai. Sân bay quốc tế đặt ở Biên Hòa, cảng Sài Gòn tập trung ở giao điểm các sông Sài Gòn và Đồng Nai là khu vực Nhà Bè.
Doxiatis bác bỏ phương án Hoàng Hùng (bộ trưởng kiến thiết thời Ngô Đình Diệm) xây dựng khu hành chính, văn hóa mới ở Thủ Thiêm. Lý do là vùng đất trũng thấp, địa chất công trình yếu rất tốn kém san lấp, nâng cốt nền, làm nhiều cầu vượt sông Sài Gòn. Ông chỉ đề xuất phương án quy hoạch thí điểm bán đảo Thủ Thiêm thành khu gia cư trong một hệ thống kênh mương, chỉ xây nhà ở thấp tầng, xen kẽ nhà liên kế và biệt thự là nhà ở tập thể 4 tầng, chứ không làm nhà cao tầng hoặc khu kinh doanh, hành chính đồ sộ.
Nguồn lực và tài chính vào những năm 1960 đều dồn cho chiến tranh, cho nên phương án Doxiadis không thực hiện được. Chỉ khi viễn tượng hòa bình ló dạng vào cuối cuộc chiến, chính quyền Việt Nam cộng hòa cùng người Mỹ soạn thảo kế hoạch kinh tế hậu chiến vào đầu các năm 1970 mang tên “Kế hoạch Lilienthal – Vũ Quốc Thúc” xác định Sài Gòn là trung tâm phát triển kinh tế toàn miền Nam. Khu trung tâm thương mại – dịch vụ Sài Gòn sẽ được hoàn thiện cơ sở hạ tầng và nới rộng lên hướng Bắc và sang Thủ Thiêm.
Phương án phát triển bán đảo Thủ Thiêm của nhóm quy hoạch WBE (Wurster, Bernadi & Emmons) có trụ sở tại San Francisco (Mỹ) đề xuất việc xây dựng một khu thương mại – dịch vụ hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế quy mô lớn nhất Đông Nam Á. Phương án quy hoạch táo bạo và rất tốn kém đó ra đời vào năm 1974, chưa kịp thực hiện thì miền Nam đã được giải phóng.
Phải chăng tính năng động Sài Gòn là bản “quy hoạch tổng thể” hiệu quả nhất
Những bất cập về mặt đô thị phát triển trong chiến tranh và bất ổn sau giai đoạn 1954 – 1975 quả là một di sản nặng nề cho chính quyền sau tháng 4/1975: khủng hoảng về nhà ở, cạn kiệt nguồn lực, thiếu điện, nước…
Nếu sự phát triển thành phố, chỉ nói về mặt quy hoạch xây dưng, có bị hạn chế trong giai đoạn 1975 – 1990, thì các luồng di dân vẫn tiếp tục. Cư dân nông thông trở về, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, dân nhập cư từ miền Bắc vào miền Trung.
Những đổi thay lớn của TP.HCM kể từ năm 1990 phải chăng còn quá sớm để phân tích dưới khía cạnh lịch sử và di sản kiến trúc. Những chuyển biến này liên quan đến dân số, không ngừng tăng trưởng, và các công trình kiến trúc luôn đổi mới. Các phương án quy hoạch xây dựng TP.HCM theo kiểu định hướng rắn chắc thời kế hoạch hóa liên tiếp nhau ra đời để nhanh chóng bị vô hiệu hóa, do sự chuyển hướng nền kinh tế thời mở cửa theo kinh tế thị trường và phát triển quá nhanh của thành phố.
Bản thân thành phố cho đến ngày nay vẫn còn đi tìm hướng phát triển mới cho mình… Hay nói như nhà nghiên cứu kiến trúc Pháp Francois Tainturier về kiến trúc đô thị Sài Gòn vào thời điểm thành phố kỷ niệm 300 năm (1998): “Tất cả sẽ để lại dấu ấn trên một thành phố mà chính cái tính năng động của nó luôn là bản “quy hoạch tổng thể” hiệu quả nhất”.
Hướng phát triển nào cho tương lai
Ngày nay, cơ thể của TP. HCM và các thành phố xung quanh đang lớn lên từng ngày, đòi hỏi chiếc áo phải được thiết kế lại và may mới, cứ tiếp tục nới ra hay vá đắp thêm không còn phù hợp nữa. Nếu làm được như thế thì Vùng đại đô thị, lõi trung tâm Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là TP.HCM sẽ phát huy được nhiều hơn nữa vai trò là đầu tàu trong tiến trình phát triển của Nam bộ. Còn nếu cứ giữ nguyên như hiện nay (qui mô, cách thức quản lý) thì nhất định sẽ gặp nhiều khó khăn trong những năm tới.
Mỗi khu vực có thể lựa chọn cho mình mô hình VĐĐT khác nhau, nhưng quan trọng nhất là phải tìm mọi cách phá thế đơn độc để hòa nhập vào không gian kinh tế, văn hóa – xã hội rộng lớn hơn vượt ra khỏi biên giới hành chính hiện hữu. Việc chuyển sang VĐĐT sẽ giải quyết được một cách căn bản những vấn nạn bên trong mỗi đô thị lớn như tắc nghẽn giao thông, quá tải dân số, ô nhiễm môi trường và chủ động điều phối được những quan hệ giữa các đô thị trong toàn vùng về thị trường lao động, hàng hóa, vốn và các nguồn lực từ bên ngoài.
VĐĐT TP.HCM sẽ bao gồm các thành phố lớn: loại 1 đô thị cấp quốc gia TP.HCM, loại 2: Biên Hòa, Vũng Tàu (đô thị trung tâm vùng) và các thành phố trung tâm cấp tỉnh: Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Long Khánh, Xuân Lộc, Đồng Xoài, Tây Ninh và Tân An. Tất cả các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và các cụm công nghiệp lớn, quan trọng nhất ở miền Nam đều tập trung với mật độ cao ở các thành phố này. Ngoài ra, còn một loạt các thành phố mới đang hình thành là Dĩ An, Nhơn Trạch, Tam Phước, Phú Mỹ, Long Sơn, Long Hải, Bến Lức… đang là các trung tâm công nghiệp. Nhưng để trở thành là VĐĐT, TP.HCM nhất thiết phải phát triển thêm các thành tố sau đây:
Cần xác lập các mối tương quan giữa các thành viên trong VĐĐT: TP.HCM đóng vai trò chủ đạo như một nhạc trưởng, còn các tỉnh và thành phố khác sẽ thiết lập mối tương quan theo thứ bậc dựa trên qui mô dân số hoặc mức độ đóng góp GNP vào cả vùng.
TP.HCM phải hình thành các thị trấn và đô thị vệ tinh để giãn bớt dân cư từ các quận nội thành bằng cách phát triển thêm phần dịch vụ, thương mại và nhà ở từ các trung tâm công nghiệp tập trung, khu chế xuất hiện hữu và phát triển mới từ các trung tâm công nghiệp đang phát triển ở phía tây bắc thành phố (Củ Chi, Hóc Môn) và phía tây nam thành phố (Bình Chánh) và Bến Lức (Long An).
Hình thành các vùng nông thôn mới xen kẽ với các khu đô thị. Đó là các vùng nông thôn mới, phát triển theo hướng nông nghiệp công nghệ cao.
Thành lập hệ thống quản lý VĐĐT: một khi VĐĐT hình thành thì việc thiết lập nên một hệ thống quản lý vùng là điều bắt buộc. /.
Nguyễn Hữu Thái
Kiến trúc sư – Quy hoạch gia
TẠP CHÍ KIẾN TRÚC VIỆT NAM