Phong trào công trình xanh hình thành và phát triển như thế nào?
(TCKTVN 231) – Công trình xanh, Kiến trúc xanh là gì?
Công trình xanh (Green Building)
Công trình xanh là phong trào xây dựng công trình thân thiện với hệ sinh thái tự nhiên, xuất hiện từ cuối thế kỷ 20 (1990-1995), được gần 100 nước trên thế giới thực hiện. Năm 2015, Hội đồng Công trình xanh thế giới (WorldGBC) đề ra mục tiêu “đến năm 2050 các tòa nhà sẽ không phát thải khí nhà kính”.
Công trình xanh (CTX) nhằm đánh giá các tòa nhà (Buildings) đã xây dựng về bảo tồn hệ sinh thái, vận hành không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường khu vực và đô thị, giảm thiểu tiêu thụ năng lượng hóa thạch, nhờ đó giảm phát thải khí CO2, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước và tạo được môi trường sống tốt nhất cho con người. Mô hình tòa nhà xanh do Hội đồng CTX Mỹ (USGBC) đề xuất năm 1995 và được thừa nhận rộng rãi trên thế giới bao gồm: (1) Địa điểm bền vững, (2) Hiệu quả nước, (3) Hiệu quả năng lượng, (4) Bảo tồn vật liệu và tài nguyên, (5) Chất lượng môi trường trong nhà.
Các tòa nhà được đánh giá bằng điểm số theo “Hệ thống tiêu chí đánh giá CTX” của mỗi nước, sẽ được cấp “Chứng chỉ CTX” theo bốn mức Bạch kim (cao nhất), Vàng, Bạc và Đạt yêu cầu (thấp nhất). “Chứng chỉ CTX” không phải là giải thưởng, mà là sự thừa nhận và tôn vinh của xã hội, cộng đồng đối với các nhà đầu tư, các tác giả thiết kế và xây dựng công trình, nhằm khuyến khích xây dựng thật nhiều các tòa nhà xanh. (Mỹ năm 2006 đã chi tổng cộng cho 64 giải thưởng số tiền 4.146.000USD, trung bình gần 70.000USD/giải thưởng).
“Hệ thống tiêu chí đánh giá CTX” không được coi là quy chuẩn thiết kế hoặc xây dựng công trình (Building Code), bởi quy chuẩn là các tiêu chí bắt buộc thấp nhất (giới hạn sàn) phải đạt được để được cấp phép xây dựng. Các tiêu chí CTX là những mong muốn cao hơn quy chuẩn vì lợi ích của cộng đồng, của xã hội và xa hơn cho cả Trái đất trong tương lai.
Kiến trúc xanh (Green Architecture)
Kiến trúc xanh là thiết kế kiến trúc để tạo ra CTX. Để đạt mục tiêu đó, kiến trúc trước hết phải lợi dụng tối đa những thuận lợi của hệ sinh thái địa điểm, khắc phục các bất lợi của khí hậu địa phương. Đồng thời, công trình kiến trúc phải đạt được yêu cầu thẩm mỹ, phù hợp với văn hóa sống của địa phương, dân tộc, của cộng đồng.
Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 thế kỷ 20, toàn thế giới chính thức quan tâm đến phát triển bền vững (Sustainable Development) và xây dựng các chương trình phát triển bền vững của nước mình (Chương trình nghị sự 21). Trong bối cảnh đó Kiến trúc bền vững (Sustainable Architecture) ra đời (Cuốn sách đầu tiên viết năm 1997).
Năm 1990-1995, khi phong trào CTX ra đời, danh từ Kiến trúc xanh (Green Architecture) cũng dần xuất hiện trong các ấn phẩm từ năm 2000 tới nay. Có lẽ, Kiến trúc bền vững đã tìm thấy mục tiêu cụ thể của mình là những tòa nhà xanh, từ đó đã đồng nhất hai danh từ này. Khái niệm “xanh” thay thế hoàn hảo cho khái niệm bền vững và được tiếp nhận rộng rãi trên khắp thế giới.
Như vậy ta có thể hiểu Kiến trúc xanh hay Kiến trúc bền vững là công việc thiết kế kiến trúc (được đánh giá theo chất lượng kiến trúc) để góp phần tạo ra tòa nhà xanh (đánh giá theo tiêu chí CTX). Nội dung về CTX đã được định lượng tin cậy bằng hệ thống đánh giá có điểm số, nhưng nội dung phần kiến trúc đánh giá thường theo “định tính”, liên quan đến văn hóa, xã hội, cộng đồng, dân tộc, thẩm mỹ và cả việc đáp ứng tốt nhất công năng của một công trình.
Như vậy, Kiến trúc xanh – Kiến trúc bền vững chứa đựng hai yêu cầu nội dung cơ bản: yêu cầu kiến trúc và yêu cầu tạo ra CTX. Đó chính là “Xu hướng kiến trúc thế giới của thế kỷ 21 vì sự tồn vong của Trái đất”.
Quan niệm này cũng phù hợp với hai tác giả nổi tiếng: Osman Attmann: “Xanh là khái niệm biểu tượng, bao gồm các thuật ngữ bền vững, sinh thái và hiệu suất” (2010); Ken Yeang: “Kiến trúc xanh hoặc Kiến trúc bền vững đơn thuần là những thuật ngữ khác nhau về vấn đề thiết kế với thiên nhiên và thiết kế với môi trường” (2011).
Điều gì đã làm cho các nhà lãnh đạo toàn cầu lo lắng?
Sự phát triển của xã hội văn minh với khoa học kỹ thuật tiên tiến và công nghệ cao luôn gắn liền với đô thị hóa. Dân cư từ nông thôn sẽ chuyển ra sinh sống tại các đô thị, từ lao động nông nghiệp thô sơ do chưa được công nghiệp hóa sẽ chuyển sang lao động có kỹ năng trong các nhà máy, xí nghiệp, công ty.
Năm 1880 mới chỉ có 4% dân số thế giới sống trong các đô thị. 20 năm sau, năm 1900, dân số đô thị đã tăng lên 14%, và sau 50 năm (1950) tỷ lệ dân số đô thị đã lên tới 30%. Đến năm 2007 đã có hơn 50% dân số thế giới, tức khoảng 3,2 tỷ người sống trong các đô thị. Theo dự báo của Liên hợp quốc (LHQ) và Ngân hàng thế giới (WB) tới năm 2025 sẽ có 2/3 dân số thế giới, khoảng 5 trong 8 tỷ người, sống trong các đô thị. Một dự báo khác, năm 2050 trên thế giới sẽ có 85% dân số sống trong các thành phố.
Đô thị hóa gây sức ép rất lớn lên hệ sinh thái và môi trường. Trước hết đất nông nghiệp trở thành đất đô thị để xây dựng các nhà ở, văn phòng, các công trình phục vụ người dân, hệ thống giao thông, các khu công nghiệp. Không chỉ ruộng đồng mà cả rừng cây, thảm cỏ, ao hồ, sông ngòi cũng dễ dàng bị mất. Các sinh vật bị đuổi khỏi nơi sinh sống. Thay cho các bề mặt tự nhiên là bề mặt của công trình xây dựng, giao thông, hấp thụ mạnh bức xạ mặt trời, làm cho nhiệt độ các đô thị tăng cao.
Cùng với các chất thải (rắn, khí, lỏng) từ hoạt động của con người trong các đô thị, của giao thông vận tải, của công nghiệp, môi trường đô thị bị thay đổi mạnh so với môi trường tự nhiên, bất lợi không chỉ đối với con người mà còn góp phần tạo ra những biến đổi lớn, có tính tích lũy, gây đột biến đối với hệ sinh thái, môi trường khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên điều lo lắng nhất của thế giới hiện nay là đô thị hóa đòi hỏi tăng cường sản xuất điện năng từ đốt nhiên liệu hóa thạch để phục vụ con người, thải vào khí quyển Carbon dioxide (CO2), là “khí nhà kính/Greenhouse Gas” (GHG) chủ yếu do nồng độ lớn, làm nóng Trái đất, gây ra Biến đổi khí hậu (Climate Change).
Các nhà khoa học tính rằng, nếu nồng độ CO2 trong khí quyển đạt 450 ppm thì nhiệt độ trái đất sẽ tăng thêm 2oC, và với sự kinh doanh như hiện nay của các tập đoàn kinh tế lớn, thì khả năng này có thể xảy ra vào năm 2035 !
Năng lượng sử dụng trong công trình xây dựng bao gồm từ việc sản xuất vật liệu, cấu kiện xây dựng, thiết kế và thi công xây dựng công trình, năng lượng vận hành công trình trong suốt cuộc đời, kể cả việc bảo dưỡng, cải tạo, sửa chữa, tới khi phá hủy công trình. Toàn bộ năng lượng này trong tất cả các công trình xây dựng đóng góp khoảng gần một nửa lượng CO2 trong khí quyển.
Theo Hội đồng CTX Mỹ (USGBC), năng lượng sử dụng hàng năm của nhà ở và nhà thương mại là 39%, cộng thêm năng lượng tự thân khi chế tạo vật liệu xây dựng, vận chuyển chúng đến nơi xây dựng và lắp đặt vào công trình, thì tổng năng lượng tiêu thụ cho nhà cửa là 48%. Nghiên cứu tại Đài Loan cho biết tỷ lệ phát thải CO2 gắn với công nghiệp xây dựng – kiến trúc là trên 40% ở các nước xứ lạnh. Trong khi đó, Hội thảo về CTX châu Phi năm 2010 đánh giá “hoạt động xây dựng công trình đã tiêu hao 56% năng lượng của khu vực”. Như vậy, có thể nói rằng lĩnh vực xây dựng nói chung, và nhà cửa nói riêng, góp khoảng “một nửa nguyên nhân” gây ra Biến đổi khí hậu.
Sớm nhận ra những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Trái đất, Tổ chức quốc tế Bảo tồn thiên nhiên của LHQ (the International Union for the Conservation of Nature – UCN) là nơi đầu tiên báo động về sự phát triển không bền vững của Trái đất trong bản Tuyên bố Chiến lược bảo tồn Thế giới (World Conservation Strategy)” tại Thụy Sỹ.
Năm 1980, Tuyên bố nói rằng Bền vững (Sustainability) phải được coi là mắt xích không thể tách rời với Phát triển (Development).
Năm 1987, Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát triển (World Commission on Environment and Development) của LHQ được thành lập và công bố bản báo cáo Tương lai chung của chúng ta (Our Common Future). Năm 1991, ba tổ chức quốc tế (IUCN/UNEP/WWI) công bố văn kiện “Chăm lo cho Trái đất: Một chiến lược vì sự tồn tại bền vững”.
Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển (Conference on Environment and Development) tại Rio de Janeiro, Brazin có 179 nhà lãnh đạo thế giới tham gia, đã thông qua Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21.
Năm 2002, tại Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với 166 nước tham gia đã khẳng định lại các nguyên tắc đã đề ra và cam kết thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự. Trên cơ sở đó, các nước đã đưa ra Chương trình nghị sự 21 của mình.
Tại Việt Nam, “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam” được phê duyệt năm 2012. Năm 1992 “Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu/The United Nations Framework Convention on Climate Change” được ký kết (Chính phủ Việt Nam phê chuẩn tháng 11/1994). Tiếp đó “Nghị định thư Kyoto /The Kyoto Protocol” tháng 12/1997 của các bên tham gia Công ước, ký cam kết giảm 5,2% lượng phát thải khí nhà kính (GHG) trên toàn cầu giai đoạn 2008-2012 so với năm 1990.
Tháng 12/2015, tại Hội nghị thượng đỉnh COP 21 Paris, các nhà lãnh đạo thế giới lần đầu tiên công nhận “CTX phải và sẽ là một phần giải pháp cho Biến đổi khí hậu”. Từ đây, CTX chính thức được coi là giải pháp hiệu quả chống lại hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Trái đất, mà Việt Nam là một trong bốn quốc gia có thể chịu hậu quả nặng nề nhất.
Như vậy, đồng thời với sự phát triển của xã hội theo hướng tiến bộ, văn minh, hai nguy cơ lớn đang đe dọa sự bền vững trái đất là hệ sinh thái trái đất bị hủy hoại nghiêm trọng và Biến đổi khí hậu đe dọa sự tồn vong của loài người do sử dụng năng lượng hóa thạch và phát thải khí nhà kính. CTX, Kiến trúc xanh, Đô thị xanh chính là giải pháp hiệu quả chống lại hai nguy cơ lớn nói trên, trong đó CTX chính là nội dung cơ sở của Kiến trúc xanh để tạo ra các Đô thị xanh.
CTX trở thành một phong trào rộng lớn như thế nào?
Trong bối cảnh một thế giới phát triển thiếu bền vững như đã nói trên, CTX ra đời năm 1990 tại Vương quốc Anh, sau đó tại Mỹ năm 1993. Từ đó phong trào CTX phát triển rộng dần trên khắp thế giới. Các Hội đồng CTX quốc gia (Green Building Council) lần lượt ra đời.
Một nhà nghiên cứu Mỹ đánh giá: Ban đầu CTX chỉ như một làn sóng (the Wave), đến năm 2006 đã trở thành cơn bão (the Storm) và đến 2009-2010 được coi là “Cuộc cách mạng CTX/The Green Building Revolution”.
Khẩu hiệu của CTX là “10 hơn 1/10 heads are better than 1”, vì vậy CTX cần trở thành một Phong trào (Green Buildng Movement) rộng khắp trong toàn lĩnh vực xây dựng thế giới. Chỉ khi đó, CTX sẽ làm thay đổi môi trường trái đất để cuộc sống con người trên thế giới trở nên tốt đẹp hơn và ngăn chặn Biến đổi khí hậu toàn cầu.
Trước nhu cầu phát triển cấp bách đó, tháng 11/1999, tại California, Hội đồng CTX Thế giới ra đời với đại diện của 8 Hội đồng CTX các quốc gia Úc, Canada, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Nga, UAE, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ
Hội đồng CTX thế giới (WorldGBC), chính thức thành lập vào năm 2002, và một ban thư ký được lập ra sau đó, năm 2007, đặt trụ sở tại Toronto, Canada. Vai trò chính của Ban thư ký là “chính thức thông tin liên lạc quốc tế, đáp ứng sự quan tâm ngày càng tăng trong ngành công nghiệp CTX và cộng đồng theo quan điểm quốc tế, giúp các nhà lãnh đạo ngành công nghiệp tiếp cận thị trường mới nổi, và cung cấp một tiếng nói quốc tế chung cho các sáng kiến CTX”.
Hội đồng CTX thế giới có sứ mệnh: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi toàn cầu của ngành công nghiệp xây dựng theo hướng bền vững theo định hướng thị trường.
Hội đồng CTX Thế giới là tổ chức quốc tế lớn nhất, một tổ chức phi lợi nhuận liên minh các Hội đồng CTX (GBC) quốc gia. Hiện tại Hội đồng CTX Thế giới có 100 hội đồng thành viên bao gồm hơn 80 quốc gia và 32.000 công ty bất động sản thành viên.
Trong khu vực Đông Nam Á, năm 2002, Đài Loan ban hành Chính sách quốc gia (National Policy) về CTX và năm 2008 coi CTX là thách thức lớn trong “Chương trình trọng đại phát triển quốcgia (National Major Development Plan). Singapore năm 2005-2010 có Chương trình lớn quốc gia về CTX (Green Building Master Plan) lần thứ nhất, tiếp đó năm 2010 đã ban hành Chương trình CTX tiếp theo cho năm 2010-2030 với mục tiêu tới năm 2030 sẽ có 80% công trình đạt chứng chỉ CTX.
Ví dụ của Đài Loan và Singapore cho thấy, 2 nước tuy không khởi đầu sớm về phong trào CTX (bắt đầu từ năm 2000-2005) nhưng đã đạt được kết quả rất đáng khâm phục, do đã coi trọng và đưa phong trào CTX thành các chương trình trọng đại của quốc gia.
Dù vậy, phần lớn các nước trên thế giới không đưa CTX vào quy chế hành chính bắt buộc, mà chỉ là sự đòi hỏi của xã hội với lương tâm của nhà đầu tư, người thiết kế, xây dựng. Vì vậy, CTX không phải là một cuộc thi mà phải trở thành một phong trào rộng lớn. Chứng chỉ CTX, dù là Bạch kim, Vàng hay Bạc không phải giải thưởng kiến trúc, mà là vinh dự của người làm ra nó, được xã hội thừa nhận, vinh danh. Ngày nay trên thế giới đã có hàng chục ngàn công trình như vậy, và còn mong muốn có nhiều hơn nữa.
CTX đóng góp gì cho nhân loại?
Năm 2005 Hội đồng CTX Mỹ (USGBC) đã tổng kết 10 năm (1995-2005) thực hiện Chương trình CTX (Green Building Movement) cho các kết quả như sau:
(1) Tiết kiệm 30-50% nước và năng lượng, nhờ đó giảm phát thải CO2;
(2) Giảm chi phí bảo dưỡng 10-15%, đặc biệt về vận hành năng lượng;
(3) Năng suất lao động tăng 3-5%;
(4) Nguy cơ bệnh tật giảm >5%, nâng cao sức khỏe người sở hữu;
(5) Giá trị công trình tăng, thương hiệu công ty xây dựng nổi bật;
(6) CTX là cam kết bảo đảm bền vững về môi trường.
Mỹ năm 2000 có 1.500 tòa nhà, đến năm 2006 đã có 5.000 công trình được cấp chứng chỉ CTX với tổng diện tích sử dụng là 50 triệu m2.
Đài Loan, sau 7 năm thực hành CTX (2000-2007) đã tiết kiệm được 432 triệu kWh điện, giảm được 285.000 tấn CO2, tương đương lượng hấp thụ của 950ha rừng, giảm 18,3 triệu m3 nước sạch.
Singapore năm 2012 đã có 1.500 công trình được nhận chứng chỉ CTX, chiếm 21% tổng số lượng các công trình xây dựng. Dự kiến năm 2030 sẽ có 80% công trình đạt chứng chỉ CTX.
Tại nước này CTX đã phát triển sang cả lĩnh vực xây dựng hạ tầng và công viên (hiện có và mới xây dựng).
Malaysia tới năm 2010 đã có vài trăm công trình đạt chứng chỉ CTX với tổng diện tích sàn là khoảng 4,6 triệu m2.
Ấn Độ với khởi đầu khiêm tốn năm 2003 đạt khoảng 1.800m2 diện tích CTX trên cả nước. Đến tháng 11/2020 đã có hơn 6.222 dự án đăng ký với Hội đồng CTX Ấn Độ (IGBC), với diện tích hơn 700 triệu m2, trong đó có 2.098 dự án được chứng nhận đạt Chứng chỉ CTX.
Báo cáo thường niên năm 2015-2016 của Hội đồng CTX Thế giới xác nhận: Đã có 49% Hội đồng CTX các nước thực hiện hệ thống cấp Chứng chỉ CTX cho các công trình xây dựng ở nước mình với tổng diện tích 1,04 tỷ m2 CTX, bằng 10 lần diện tích của Paris.
Nhân dịp Hội nghị COP 21 đạt được “Thỏa thuận lịch sử về Biến đổi khí hậu” với 195 nước tham gia, Hội đồng CTX Thế giới đã hợp tác với chính phủ Pháp, Hoa Kỳ và Chương trình Môi trường Quốc tế tổ chức “Ngày tòa nhà/Buildings Day”. Trong ngày này đã ra mắt “Liên minh toàn cầu các Công trình và Xây dựng/Global Alliance for Buildings and Construction” bao gồm 23 quốc gia và 64 tổ chức phi chính phủ.
Tại đây Hội đồng CTX Thế giới đã phát động “Xây dựng xanh hơn/Better Build Green” và “Hành trình đến Net Zero/Journey to Net Zero Emission Buildings” – với mục tiêu “bảo đảm đến năm 2050 tất cả tòa nhà không phát thải khí nhà kính”.
Tất cả các Hội đồng CTX các nước cam kết với Hội đồng CTX Thế giới đến năm 2050 sẽ giảm 84 tỷ tấn CO2 cho 8,5 tỷ người trên thế giới. Thúc đẩy dự án Net Zero, Hội đồng CTX Thế giới quyết tâm đáp ứng mục tiêu đầy tham vọng: tất cả các tòa nhà là “không Carbon” vào năm 2050.
Năm 2015 hơn 30 Hội đồng CTX các nước có cam kết chung đầy tham vọng; đến năm 2020 sẽ có thêm 1,25 tỷ m2 không gian CTX trên thế giới, gấp gần hai lần diện tích của Singapore – và đào tạo cung cấp 127.000 các chuyên gia CTX.
CTX có làm tăng kinh phí xây dựng công trình không?
Lo lắng CTX làm tăng giá thành công trình có thể là rào cản cho sự phát triển tại các nước mới bắt đầu thực hành CTX như ở Việt Nam.
Kinh nghiệm phát triển CTX ở Đài Loan cho thấy, trong số 700 dự án được xem xét để cấp Chứng chỉ CTX lần đầu tiên (năm 2003), điểm trung bình chỉ đạt 4,3, trong đó chỉ có 2,5% dự án đạt điểm 6-9 theo thang điểm 100. Sau 7 năm thực hiện, chương trình CTX Đài Loan cho thấy có 50% kỹ thuật xanh áp dụng giữ nguyên giá, 30% giảm giá và chỉ có 20% tăng giá. Khẩu hiệu của CTX Đài Loan là “Giàu có gấp đôi, tài nguyên một nửa”. Vì vậy Đài Loan là đất nước có phong trào CTX phát triển mạnh hàng đầu trong khu vực.
Tại Mỹ có vài nghiên cứu về vấn đề này. Một số nghiên cứu cho kết quả là để đạt chứng chỉ LEED, chi phí dự án tăng trung bình 1,84%, để đạt chứng chỉ vàng, chi phí xây dựng cao hơn từ 1 đến 5%, (nghiên cứu 33 dự án tại California năm 2003 của Gregory Kats). Nhưng một nghiên cứu khác của Tập đoàn quản lý giá quốc tế Davis Langdon năm 2006, dựa trên 94 dự án xây dựng, lại thấy rằng không có bằng chứng nào nổi bật để kết luận rằng chi phí cho mỗi m2 CTX nhiều hơn một công trình truyền thống. Các nhà nghiên cứu đánh giá “từ phân tích này chúng ta kết luận được rằng, nhiều dự án đạt được tiêu chuẩn bền vững chỉ với kinh phí ban đầu hay chỉ cần thêm một khoản tiền hỗ trợ rất nhỏ…”
Về quan hệ giữa giá đầu tư, hiệu quả năng lượng và thời gian hoàn vốn, Công ty tư vấn IEN (IEN Consultants) Đan Mạch hoạt động rất hiệu quả ở Malaysia với công thức: 5- 50-5 với ý nghĩa: vốn đầu tư tăng thêm 5%, hiệu quả năng lượng tăng 50% và hoàn vốn sau 5 năm và họ đã thành công. Kinh nghiệm thực hành CTX ở Malaysia cũng rất đáng tham khảo: sau khi có quyết định thực hiện dự án công trình, những người tư vấn về CTX (năng lượng, môi trường, sinh thái) sẽ được giao nhiệm vụ nghiên cứu và đề xuất giải pháp trước, sau đó mới phối hợp cùng KTS để tiến hành thiết kế công trình.
Tổng kết từ các nghiên cứu tại nhiều nước, có thể thừa nhận CTX có thể làm tăng giá thành công trình trung bình từ 2 đến 5%. Nhưng lợi ích CTX không chỉ mang lại hiệu quả cao cho người sử dụng, mà quan trọng hơn là đóng góp hiệu quả vào việc ngăn chặn Biến đổi khí hậu. Kinh nghiệm tại Mỹ cho thấy các công trình đạt chứng chỉ CTX có thể được định giá cao hơn, nhưng lại được mua nhanh hơn. Đồng thời, các giải pháp về CTX được đề xuất ngay từ giai đoạn thiết kế kiến trúc sơ bộ sẽ có hiệu quả cao hơn và giảm được kinh phí xây dựng công trình.
Phong trào CTX ở Việt Nam?
Năm 2007, Hội đồng CTX Việt Nam (VGBC) được thành lập, là một tổ chức phi chính phủ, chi nhánh của Hội đồng CTX California. Năm 2011, VGBC đưa ra Hệ thống đánh giá CTX đầu tiên ở Việt Nam, gọi là LOTUS.
Năm 2011 Hội Môi trường Xây dựng Việt Nam (MTXDVN) thành lập “Hội đồng Xây dựng Xanh Việt Nam (GBCVietnam)”, được sự bảo trợ của Bộ Xây dựng. Hội MTXDVN đã được Bộ Xây dựng giao xây dựng “Chiến lược phát triển CTX ở Việt Nam năm 2020-2030” và xây dựng “Hệ thống tiêu chí CTX Việt Nam”. Hai đề tài này đã hoàn thành, được Hội đồng khoa học nghiệm thu và bàn giao cho Bộ Xây dựng năm 2014. Bộ Xây dựng cũng giao cho Hội đánh giá thử nghiệm một công trình theo Hệ thống tiêu chí này.
Nhân kỷ niệm ngày Kiến trúc Việt Nam 27/4/2011, Hội KTS Việt Nam đã thành lập Hội đồng Kiến trúc xanh Việt Nam và ra “Tuyên ngôn Kiến trúc xanh Việt Nam” trong đó nêu rõ Kiến trúc xanh “là hướng phát triển của kiến trúc Việt Nam vì cuộc sống tốt đẹp của ngày hôm nay, không tổn hại đến cuộc sống mai sau và vì sự phát triển trường tồn của đất nước”. Sau khi công bố các tiêu chí Kiến trúc xanh Việt Nam, từ năm 2012, cứ hai năm một lần Hội KTS Việt Nam lại tuyển chọn và trao “Giải thưởng Kiến trúc xanh” cho các công trình xuất sắc đã xây dựng trên đất nước ta. Nhờ sự cổ vũ này, các KTS Việt Nam đã không ngừng tìm kiếm các giải pháp thiết kế kiến trúc theo“hướng xanh” và cho ra đời nhiều công trình được đánh giá cao không chỉ trong nước, mà cả thế giới.
Thực tế những năm gần đây cho thấy các doanh nghiệp phát triển dự án có nhiều thay đổi trong tầm nhìn và định hướng phát triển, hướng tới cung cấp ra thị trường những công trình có nhiều yếu tố xanh và hiệu quả năng lượng. Các dự án trình diễn của UNDP về ứng dụng các giải pháp kỹ thuật giảm thiểu tiêu thụ năng lượng trong công trình mới và công trình cải tạo cho thấy tiềm năng tiết kiệm năng lượng có thể đạt được từ 25-67%/công trình, với chi phí gia tăng từ 0-3% tổng mức đầu tư/công trình và thời gian hoàn vốn tối đa là 5 năm.
Theo số liệu thống kê tại “Tuần lễ CTX Việt Nam năm 2020” đến quý 3 năm 2020, Việt Nam có 155 dự án đạt Chứng chỉ CTX của EDGE (41 dự án), LEED (83 dự án) và LOTUS (31 dự án) với tổng diện tích sàn là 3.325.000m2. Lưu ý rằng con số này tính cả các công trình mới trên hồ sơ thiết kế, trong khi chứng chỉ CTX chính thức chỉ tính các công trình đã đưa vào sử dụng ít nhất 2 năm.
155 dự án đạt Chứng chỉ CTX ở Việt Nam là con số quá “khiêm tốn”, chứng tỏ CTX ở Việt Nam mới đi những bước đầu tiên, chưa có phong trào hoạt động thực sự và chưa được sự quan tâm đúng mức của xã hội./.
PGS.TS Phạm Đức Nguyên/Hội Môi trường Xây dựng Việt Nam