Phát triển công trình xanh trong Định hướng Phát triển Kiến trúc
(TCKTVN 230) – Công trình xanh (CTX) hiện đang là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực xây dựng trên phạm vi toàn cầu khi các công trình xây dựng ngày càng thể hiện trách nhiệm cao hơn với tài nguyên thiên nhiên, với môi trường và hệ sinh thái, và với chất lượng cuộc sống con người thông qua các nỗ lực toàn diện trên các khía cạnh: thiết kế, thi công, sản xuất thiết bị, công nghệ, vật liệu, chính sách và tài chính. CTX cũng đã chứng tỏ việc mang lại hiệu quả nhiều mặt: hiệu quả môi trường, lợi ích xã hội thông qua và các lợi ích kinh tế rõ rệt.
Ở Việt Nam, chúng ta đã có một số chủ trương, chính sách lớn thúc đẩy một ngành xây dựng xanh hơn, có trách nhiệm với môi trường hơn như: Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (năm 2010), Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 (năm 2010), Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 (năm 2014), Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (2015), Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (2017), Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 (2017); Kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030 (2018), Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019- 2030 (2019). Gần đây, Luật Xây dựng sửa đổi (2020) cũng một lần nữa khẳng định quan điểm khuyến khích phát triển CTX, công trình năng lượng hiệu quả và củng cố vai trò của Bộ Xây dựng trong công tác này. Như vậy, CTX đang có rất nhiều triển vọng, và sẽ trở thành một trong những nội dung trọng tâm của chiến lược Phát triển Kiến trúc Việt Nam, cũng như chiến lược “xanh hoá” ngành Xây dựng, chuyển đổi thị trường xây dựng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường.
Hiểu về Công trình xanh như thế nào?
Thuật ngữ “Công trình xanh” bắt đầu manh nha trên thế giới vào những năm 70 của thế kỷ trước. Lúc này, thế giới đã trải qua một quá trình CNH – HĐH mạnh mẽ suốt gần 2 thế kỷ, và nhận ra rằng, cái giá của công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế là thâm dụng tài nguyên, suy thoái môi trường, ảnh hưởng đến hệ sinh thái và biến đổi khí hậu.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã cho thấy những rủi ro của nền kinh tế toàn cầu khi quá phụ thuộc vào loại năng lượng không có khả năng tái tạo này. Như vậy, từ đầu những năm 1970, câu chuyện về cách thức tiếp cận mới trong xây dựng và sản xuất có trách nhiệm với môi trường và hệ sinh thái đã được đặt ra.
Cột mốc đầu tiên đánh dấu nỗ lực của thế giới đối với vấn đề môi trường là Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và con người được tổ chức tại Stockholm, Thụy Điển ngày 5/6/1972 – đây là hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về môi trường. Đến năm 1992, 172 Chính phủ đã tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất Rio de Janeiro, với thành tựu quan trọng là sự đồng thuận về Công ước khung Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu, đặt ra chương trình hành động cho thế kỷ 21 về vấn đề con người và môi trường. Kể từ đó, các hoạt động và nghiên cứu quan trọng đã được thúc đẩy để cải thiện hiệu quả năng lượng và giảm ô nhiễm môi trường. Ngành Xây dựng được xem là lĩnh vực có mức độ phát thải khí nhà kính cao nhất và cũng tiêu thụ tài nguyên vào loại nhiều nhất.
Theo thống kê ở nhiều quốc gia, ngành Xây dựng chiếm khoảng 40% tổng mức tiêu thụ năng lượng và 25% tổng mức tiêu thụ nước hàng năm; Trong đó 80% năng lượng tiêu thụ nằm ở giai đoạn vận hành công trình. Một ngành xây dựng tiết kiệm và hiệu quả về tài nguyên và năng lượng sẽ là “lời giải” quyết định cho bài toán năng lượng chung của các quốc gia.
Để giải quyết các vấn đề khác nhau mà ngành công nghiệp xây dựng đang phải đối mặt, khái niệm “Công trình Xanh” (Green Building) đã nghiên cứu và mở rộng. Một cách đơn giản, CTX được hiểu là sản phẩm của quá trình xây dựng đã cân nhắc tác động tới môi trường và tính hiệu quả trong sử dụng tài nguyên của công trình trong suốt vòng đời của chúng (từ thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng và phá dỡ).
Như vậy, CTX trước hết là một “công trình tiết kiệm năng lượng”; Hơn thế, nó là “công trình tiết kiệm năng lượng và tài nguyên” (tài nguyên gồm: nước, vật liệu xây dựng…); Đồng thời giảm phát thải ra môi trường; Và hơn thế nữa, là công trình còn tạo ra một môi trường tốt cho người sử dụng. Nền tảng của khái niệm CTX là đặt con người trong mối quan hệ với môi trường bên ngoài và môi trường bên trong công trình. Con người vừa là chủ thể tạo ra công trình, cũng là người thụ hưởng công trình.
Các nước trên thế giới thúc đẩy phát triển CTX như thế nào?
Cho tới nay, CTX đã trở thành một xu hướng của thời đại. Ở mức độ cao hơn nữa, một số nước đã đưa ra những mô hình công trình “superlow energy building” hay “zero energy building” là công trình ít tiêu hao hoặc không tiêu hao năng lượng nhờ khả năng tự tạo ra năng lượng phục vụ chính nó, thậm chí còn cung ứng thêm vào mạng lưới; hay mô hình ‘carbon-neutral building’ là những công trình từ vật liệu xây dựng đến khi đưa vào sử dụng đều không phát ra khí CO2. Như vậy, từ khái niệm CTX ban đầu, thế giới liên tục nâng cao chuẩn xanh, và phát triển các mô hình thiết kế và xây dựng mới ngày càng hiệu quả về tài nguyên và môi trường.
Việc đo lường các mức độ xanh một cách chính xác cụ thể đặt ra yêu cầu về tiêu chí và công cụ đánh giá. Do đó, đồng hành với phong trào xanh hoá xây dựng ở các nước là sự ra đời các bộ công cụ đánh giá – chứng nhận CTX, bao gồm các bộ tiêu chí, cách thức đo lường đánh giá và quy trình đánh giá chứng nhận. Hiện đã có trên 100 quốc gia thành lập Hội đồng CTX, xây dựng hoặc áp dụng hệ thống tiêu chí CTX của mình, thực hiện các chính sách, các biện pháp đẩy mạnh phát triển CTX và đã có hàng trăm nghìn công trình xây dựng đã được đánh giá và chứng nhận.
Chính sách phát triển CTX của các quốc gia cũng khá đa dạng. Ở các nước phát triển, giới nghề nghiệp – hiệp hội là những người khởi xướng và phát triển các công cụ kỹ thuật, trong khi Nhà nước chỉ đóng vai trò xây dựng các chủ trương chính sách thúc đẩy cơ bản (như Mỹ, Úc, châu Âu).
Ở châu Á, chính phủ thường đóng vai trò quan trọng hơn: vừa khởi xướng phong trào, vừa ban hành quy chuẩn tiêu chuẩn xây dựng liên quan đến tiết kiệm năng lượng, vừa xây dựng và ban bộ công cụ CTX, cùng các cơ chế bắt buộc, thưởng, phạt rất quyết liệt như trường hợp Đài Loan, Trung Quốc, Singapore.
Các quốc gia có trình độ CTX phát triển thì đều có sự quan tâm ủng hộ của Chính phủ và sự phối hợp hiệu quả của tất cả các chủ thể trên thị trường bao gồm: Các cơ quan nhà nước ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn, chính sách; Các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp; Các doanh nghiệp đầu tư và sự đòi hỏi trách nhiệm môi trường của toàn xã hội.
Làm thế nào để thị trường CTX tại Việt Nam cất cánh?
Xu hướng thiết kế và xây dựng xanh ở Việt Nam cũng đã xuất hiện và ngày càng phát triển ở nước ta. Các KTS hiện nay đã có nhiều sáng tạo trong thiết kế các ngôi nhà ngày càng “xanh” hơn: thông thoáng hơn, nhiều cây xanh hơn, cách nhiệt tốt hơn. Đây chính là nhóm giải pháp thiết kế thụ động (không dùng thiết bị, công nghệ, mà bằng các giải pháp thiết kế thi công để cải tạo vi khí hậu). Hầu hết những ngôi nhà truyền thống ở Việt Nam có dạng thiết kế thụ động, ứng phó với vấn đề khí hậu rất thông minh.
Kiến trúc gần đây có rất nhiều giải pháp vi khí hậu của các KTS nhưng vẫn chưa mang tính chất phổ quát bởi vẫn còn dừng lại là những giải pháp cụ thể cho từng công trình nhỏ. Nhưng có những tranh luận rằng “công trình nhiều cây xanh có phải là CTX hay không? Tất nhiên, như đã nói ở trên, một CTX muốn được dán nhãn, chứng nhận thì cần phải được đánh giá và cấp chứng chỉ thông qua bộ công cụ kỹ thuật như nói ở trên.
Tính đến tháng 4/2020, Việt Nam có gần 150 công trình được công nhận CTX theo các chuẩn kỹ thuật khác nhau: LEED, EDGE, LOTUS, Green Mark. Trong các bộ tiêu chí CTX đã được áp dụng ở Việt Nam, LOTUS là bộ chứng chỉ được xây dựng cho điều kiện Việt Nam, do Hội đồng Công trình xanh Việt Nam phát triển; còn lại là các bộ công cụ quốc tế hoặc của các nước khác.
Hiện nay, thực hiện các CTX ở Việt Nam đang là tự nguyện, tự lực của các chủ đầu tư, không có hướng dẫn, quy định hay khuyến khích từ nhà nước. Nhiều công trình chứng nhận LEED tại Việt Nam, phần lớn là các nhà máy của các doanh nghiệp Mỹ hoặc các tập đoàn đa quốc gia vì họ xem trách nhiệm môi trường là một loại đạo đức xã hội.
Gần 150 CTX được công nhận trong 10 năm qua là một tín hiệu đáng khích lệ. Con số này cho thấy thị trường CTX đã hình thành tại Việt Nam và có xu hướng tăng trưởng nhưng tốc độ rất vừa phải, chưa xứng với tiềm năng của ngành Xây dựng cũng như còn thua xa các nước trong khu vực.
Vậy, làm thế nào để thị trường CTX ở Việt Nam cất cánh? Đây còn là câu hỏi đặt ra trong định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam trong hiện tại và tương lai!
Và triển vọng phát triển CTX ở Việt Nam?
Theo kết quả của Nhiệm vụ Khoa học Công nghệ trọng điểm của Bộ Xây dựng “Nghiên cứu Hướng dẫn Phát triển CTX ở Việt Nam” do Viện Kiến trúc Quốc gia thực hiện 2018- 2019, mặc dù thị trường CTX Việt Nam đã hình thành, các chủ thể chính của thị trường như các nhà đầu tư tâm huyết, lực lượng tư vấn xanh, các tổ chức đánh giá chứng nhận CTX đã xuất hiện nhưng Nhà nước chưa thể hiện được vai trò của mình thông qua những chính sách và giải pháp quyết liệt, cụ thể để thúc đẩy sự phát triển CTX ở Việt Nam. Đây được xem là một trong những nguyên nhân chính khiến thị trường CTX Việt Nam tăng trưởng chậm chạp.
Trong khung chính sách CTX của nhiều nước trên thế giới, Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm ở tất cả các nhóm chính sách. Tuy nhiên, Việt Nam nên tập trung vào hai chính sách đòn bẩy: lựa chọn bộ chứng chỉ CTX chính thức và đề xuất lộ trình áp dụng cho các công trình vốn ngân sách.
Nhiệm vụ Khoa học Công nghệ trên, sau khi đánh giá, so sánh về các mặt thì đề xuất chọn bộ công cụ LOTUS do Hội đồng Công trình xanh Việt Nam phát triển làm bộ công cụ cơ bản, dùng để áp dụng cho các công trình đầu tư sử dụng vốn công, và là cơ sở để tính toán ban hành các ưu đãi chi tiết. Theo đó, Nhiệm vụ cũng đề xuất với các đầu tư mới và sửa chữa lớn sử dụng vốn công, cần bắt buộc áp dụng CTX theo chuẩn LOTUS theo lộ trình. LOTUS có 4 mức độ: đạt, bạc, vàng, bạch kim.
Hiện nay với tình hình thực tiễn của Việt Nam chỉ cần yêu cầu các công trình công làm LOTUS ở mức đạt. Mức này không quá khó, chi phí phát sinh chỉ chiếm 1% tổng mức đầu tư. Với khu vực đầu tư vốn tư nhân, tất cả các bộ công cụ khác vẫn có thể được áp dụng, được khuyến khích và tạo điều kiện./.
PGS.TS.KTS. Phạm Thúy Loan – Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc quốc gia