Lịch sử và định hướng phát triển TP HCM xứng tầm đô thị sống tốt & thịnh vượng
(Tạp chí Kiến trúc Việt Nam) – Với hơn 300 năm hình thành và phát triển, TPHCM hiện nay được biết đến như một đô thị loại đặc biệt, với nhiều thành tựu phát triển về văn hóa – chính trị – kinh tế, mang trong mình những giá trị bản sắc đặc trưng văn hóa vùng Nam Bộ – Sài Gòn – Gia Định. Tính từ giai đoạn khôi phục kinh tế 1975 đến nay, thành phố đã trải qua rất nhiều các giai đoạn quy hoạch phát triển gắn với các mô hình phát triển kinh tế với các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đặc trưng. Đây chính là những yếu tố quan trọng góp phần tạo dựng bề dày tầm vóc một trung tâm kinh tế đầu tàu của cả nước.
Giai đoạn khôi phục kinh tế (1975 – 1985)
Trong kế hoạch 5 năm đầu tiên sau giải phóng (1975 – 1980), yêu cầu cấp thiết là sửa chữa thay thế và trang bị lại những cơ sở sản xuất hiện có để phát triển sản xuất hướng vào các cơ sở phục vụ đời sống nhân dân và xuất khẩu. Nhìn chung đây là giai đoạn khôi phục kinh tế và hạn chế sự lũng đoạn của thị trường, chưa có công trình xây dựng nào đáng kể.
Bước vào kế hoạch 5 năm 1981 – 1985, tại Nghị quyết NQ 01-BCT 1982 của chính quyền thành phố đã khẳng định: “Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn, một trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của nước ta… có vị trí quan trọng sau Thủ đô Hà Nội” và được cụ thể hóa trong “ phương hướng nhiệm vụ quy hoạch cải tạo và xây dựng TPHCM” cùng năm. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chính tập trung vào các nội dung cơ bản:
Giải tỏa nhà lụp xụp, rách nát trên và ven kênh rạch bị ô nhiễm nặng. Đặc biệt là từ năm 1984 – 1985 thành phố bắt tay vào việc giải tỏa các nhà ổ chuột nhất là nhà ở ven và trên kênh rạch bị ô nhiễm nặng nề, vì đây là vấn đề cấp bách của thành phố sau giải phóng. Lãnh đạo thành phố đã quyết định thành lập hàng loạt công ty phát triển nhà ở các quận, tách hẳn việc kinh doanh nhà ra khỏi quản lý nhà nước. Cũng nhờ những công ty này mà TP đã giải quyết được nhiều nhà ở trên và ven kênh rạch và nhà ổ chuột. Kinh phí của chính quyền địa phương chiếm khoảng 60%, dân đóng góp khoảng 40% nhằm nâng cấp các khu định cư cho người thu nhập thấp, một chiến lược quan trọng trong quản lý tăng trưởng đô thị TP.HCM .
Xây dựng hệ thống các công trình y tế, giáo dục, vui chơi giải trí, thể dục thể thao như: nhà trẻ thành phố, trường Lê Đình Chính, các bệnh viện huyện Nhà Bè, Củ Chi, Duyên Hải (Cần Giờ ngày nay), Hóc Môn; các Nhà hát Quận 10, Quận Phú Nhuận, huyện Hóc Môn, nhà văn hóa Quận 5 (xây trên nền Đại Thế giới cũ), câu lạc bộ Thể dục thể thao Phan Đình Phùng, Quận 3, hồ bơi Quận 5, công viên Lê văn Tám (nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũ), công viên Lê Thị Riêng Quận 10.
Về công nghiệp thành phố chú ý xây dựng các công nghiệp mũi nhọn xuất khẩu. Những công trình lớn của Trung ương như thủy điện Trị An, công trình khai thác dầu khí (liên doanh với Liên Xô), hồ Dầu Tiếng trong vùng đô thị TPHCM, tuy không nằm trên địa bàn thành phố nhưng ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của thành phố.
Thời kỳ đổi mới (1986 – 2002)
Giai đoạn từ năm 1986 – 1990 : Thành phố bước vào thời kỳ “Đổi mới” từ “nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” sang “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Cả nước thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Về cơ sở hạ tầng, tiến hành cải tạo mạng lưới điện thành phố, xây dựng cảng Bến Nghé, mở rộng nhà máy nước Thủ Đức, xây dựng kênh Đông Củ Chi, cầu Phú Xuân, Nghĩa trang Liệt sỹ thành phố và đường Nhà Bè – Duyên Hải (nay là Cần Giờ). Thành phố đã khôi phục và bảo tồn các khu rừng ngập mặn Cần Giờ (diện tích 25.000ha) được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới.
Về công nghiệp đã xây dựng các khu chế xuất tập trung như: Khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất đầu tiên tại nước ta (nay đã trở thành khu chế xuất hàng đầu châu Á), Khu chế xuất Linh Trung – Thủ Đức (nay đã mở rộng khu chế xuất Linh Trung II).
Nhà nước và nhân dân cùng làm để phát triển nhà ở. Các công ty phát triển nhà quận, huyện triển khai các dự án kinh doanh địa ốc để có lời, hỗ trợ cho nhà giá rẻ để bán cho người thu nhập thấp theo hình thức trả góp với phương châm “Nhà nước nhân dân cùng làm” đã được UN – ESCAP đánh giá cao và đã cùng với UBND TP HCM tổ chức Hội thảo quốc tế về “Chương trình nhà ở địa phương chú trọng phương châm nhà nước nhân dân cùng làm” (Workshop on Lacal Housing with Focus on the Partnership between Authorities and People) vào năm 1989.
Giai đoạn từ năm 1991- 1995: Thành phố cùng cả nước bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội. Quy hoach tổng thể xây dựng TP HCM đến năm 2010 với dân số 5 triệu dân, được Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 20TTg ngày 10/11/1993, đã mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của thành phố.
Năm 1993 thực hiện quy hoạch và đầu tư xây dựng Đai lộ Nguyễn Văn Linh và Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng (khu A), “khu đô thị kiểu mẫu” của cả nước và đã trở thành động lực phát triển cho khu đô thị mới Nam Sài Gòn. Phát triển các khu công nghiệp và nhà ở. Nhiều khu công nghiệp đã được triển khai xây dựng như: Tân Bình, Bình Hòa Bình Thạnh, Phú Mỹ Nhà Bè, Tân Quy – Tân Quy Củ Chi, Vĩnh Lộc, An Hạ Bình Chánh. Về nhà ở có The Land Cater, An Phú v.v.. Các cao ốc văn phòng trong đó có Landmark, Saigon Trade Center, Saigon Tower v.v.. Khách sạn có New World, Sofitel, Riverside, Equtorial. Vui chơi giải trí có Saigon Centre, Saigon Superbowl, hệ thống Co – op Mart v.v.
Giai đoạn từ 1995 – 2002: Thành phố đang đi những bước đầu tiên trên con đường “công nghiệp hóa – hiện đại hóa” hướng đến thành phố hiện đại, thành phố cạnh tranh. Đô thị hóa là hệ quả tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đô thị hóa là điều cần thiết để thúc đẩy các mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Nhiều khu công nghiệp tiếp tục được triển khai như: Lê Minh Xuân, Tân Tạo Bình Chánh, Tân Thới Hiệp Hóc Môn, Bình Chiểu Tam Bình Thủ Đức, Tây Bắc Củ Chi, Công nghệ cao Quận 9, Hiệp Phước Nhà Bè, Cát Lái Quận 2.
Đô thị hóa là sự chuyển đổi về hành chính và không gian khi diện tích đô thị mở rộng nhanh chóng. Đã thành lập 5 quận mới vào năm 1997: Quận 2, Quận 7, Quận 9, Quận 12 và Quận Thủ Đức. Các chuyển đổi nêu trên còn có liên quan đến các chuyển về đổi kinh tế, dân số, phúc lợi và chính sách đô thị.
Dự án Chỉnh trang đô thị Tân Hóa – Lò Gốm do chính phủ Bỉ tài trợ là một kiểu mẫu về cải tạo/ tái tạo đô thị/ tái đô thị hóa đô thị cũ, trong khu vực đó có những xí nghiệp gây ô nhiễm môi trường sẽ phải di dời ra ngoại vi thành phố, có khu vực phải giải tỏa đền bù để xây dựng nhà cao tầng mới theo kiểu một cụm dân cư có cuộc sống láng giềng tốt (Liveable Neighbourhood) giữa người dân có thu nhập trung bình với người dân có thu nhập thấp với quan điểm là thích hợp và tự lực, bảo tồn lối sống khác nhau và sự đồng nhất về văn hóa. Các dự án Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Tân Hóa Lò Gốm v.v.. đã di dời được khoảng 10.000 nhà lụp xụp rách nát trên và ven kênh rạch, làm thay đổi bộ mặt đô thị trung tâm thành phố.
Để cải thiện nhà ở cho người nghèo, năm 2001 thành phố triển khai Dự án Nâng cấp Đô thị Việt nam (Vietnam Urban Upgrading Project) cho các hộ nghèo ở nhiều quận với quan điểm chủ đạo là Chuyển từ chiến lược bao cấp sang chiến lược tạo điều kiện cho mọi người. Hàng chục ngàn căn hộ chung cư được xây dựng ở khắp các quận/huyện đã góp phần giải quyết nhu cầu chỗ ở cho người dân. Nhà dân tự xây ngày càng nở rộ. Rất nhiều các công trình nhà ở cao tầng và phức hợp được phát triển mạnh trong thời gian này như The Manner, Saigon Pearl, Cantavil…; Biệt thự Thảo Điền, Lake View village…; cao ốc văn phòng Bitexco, Time Square v.v.. Khu phức hợp bán lẻ Parkson, Diamond Plaza, Big C, Metro v.v.. Tuy nhiên do không phát triển đồng bộ giữa nhà ở cho công nhân và khu công nghiệp nên đã phát sinh việc xây dựng tự phát.
Đặc biệt do quy hoạch thiếu dự báo hướng phát triển Tây Nam làm phát sinh đô thị hóa tự phát đáng kể ở huyện Bình Chánh nên đã có 10 khu dân cư tự phát dẫn tới thành lập Quận mới Bình Tân. Tại ranh giới đô thị, vùng ven đô không chỉ là điểm nóng của sự phát triển hỗn loạn mà còn là nơi tiềm ẩn những mâu thuẫn quyền lợi. Việc đầu cơ phổ biến, các tranh chấp đất đai diễn ra hàng ngày.
Thời kỳ đổi mới (2002 – 2012)
Đây là thời kỳ phát triển trung tâm công nghiệp – dịch vụ. Nghị quyết 20 của BCT xác định: “TP HCM cần xây dựng thành một thành phố văn minh hiện đại phát huy vai trò thành phố với cả nước, với khu vực và từng bước trở thành trung tâm công nghiệp dịch vụ của khu vực Đông Nam Á. Tính đến thời điểm năm 2015, dân số TP HCM dự báo sẽ hơn 6 triệu người, bao gồm một số các trung tâm chính như:
Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm: Trong xu thế toàn cầu hóa, để có thể trở thành trung tâm kinh tế – tài chính – thương mại của cả nước và khu vực Đông Nam Á trong tương lai, năm 2004 thành phố đã quyết định mở rộng khu đô thị trung tâm sang Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn với một đường hầm thuộc đại lộ Đông Tây (Quận1), 5 cầu (kết nối giữa Thủ Thiêm với Bình Thạnh, đường Tôn Đức thắng Quận 1, công trường Mê Linh Quận 1, Quận 4 và Quận 7 ) và một tuyến metro nối 3 ga của Thủ Thiêm với ga trung tâm Bến Thành. Khu trung tâm mới Thủ Thiêm kết nối với Sài Gòn – Chợ Lớn trong đô thị trung tâm trở thành Trung tâm thương mại – dịch vụ (CBD) của đô thị trung tâm.
Bán đảo Thủ Thiêm rộng 737ha, do Sasaki Associetes (Mỹ) quy hoạch, tọa lạc bên bờ sông Sài Gòn đối diện với đô thị lõi lịch sử Sài Gòn. Khu trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm được hình thành sẽ kéo theo sự phát triển các đô thị đối diện như: một phần quận Bình Thạnh thông qua cầu Thủ Thiêm – Bình Thạnh, Quận 4 thông qua cầu Thủ Thiêm – Quân 4, và kết nối với khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng thông qua cầu Thủ Thiêm – Quận 7.
Có thể nói Đô thị trung tâm TP HCM được mở rộng so với trước đây bao gồm: Thủ Thiêm – Sài Gòn – Chợ Lớn và 1 phần quận Bình Thạnh, Quận 4 , khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng ở bờ Tây sông Sài Gòn. Sau khi hoàn tất xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm, đô thị hiện đại, tầng cao không hạn chế và có bản sắc, cải tạo các đô thị hiện hữu trong đô thị trung tâm bên bờ Tây, bảo tồn các công trình cổ của Sài Gòn xưa đối diện với Thủ Thiêm qua trục sông Sài Gòn, kết hợp công viên – cây xanh đôi bờ với mặt nước sông Sài Gòn, thì TP HCM sẽ trở thành Hòn ngọc tỏa sáng, xứng tầm một trung tâm lớn ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên sau nhiều năm Thủ Thiêm vẫn còn trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng, rất cần cơ chế chính đổi mới có tính đột phá để thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước đầu tư.
Đây cũng là giai đoạn văn hóa được coi là một nguồn lực kinh tế mới. Trong phát triển hiện đại của nền sản xuất tổng hợp, văn hóa như là chất keo kết dính các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, tạo nên hình hài và bản sắc mỗi dân tộc. Nếu như văn hóa có khả năng bao quát trực tiếp, bảo đảm tính bền vững xã hội, tính kế thừa lịch sử và không bị trộn lẫn ngay cả khi hội nhập vào cộng đồng thế giới, thì trong quá trình đô thị hóa cần chú ý đúng mức và khai thác sức mạnh của chức năng văn hóa, xem nó là hệ điều chỉnh và động lực của phát triển.
Một phần của động thái đô thị là do việc đa dạng hóa các hoạt động văn hóa theo nghĩa rộng (bao gồm cả toàn bộ lĩnh vực thông tin liên lạc). Chính các hoạt động đó đã mang lại lợi ích kinh tế cho các thành phố nhiều hơn là hoạt động sản xuất cổ truyền. Văn hóa đã dần trở thành yếu tố quan trọng trong việc phát triển các thành phố. Văn hóa là một nguồn lực kinh tế mới của thành phố.
Hướng đến một đô thị thịnh vượng và đô thị sống tốt
Trong xu thế toàn cầu hóa và tiến trình phát triển đô thị cần phát triển các vùng đô thị lớn nhằm tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập mạng lưới kinh tế toàn cầu. Các vùng đô thị lớn giữ vị trí then chốt trong hoạt động kinh tế quốc gia, tạo thành một đơn vị kinh tế liên kết trực tiếp với các đơn vị khác trong và ngoài nước. Đây được coi là điểm nút trong mạng lưới dòng lưu chuyển hàng hóa, vốn và thông tin toàn cầu thay vì một thực thể xã hội hữu cơ nằm trong vùng xa của khu vực. Những điểm nút như vậy có thể nằm trong các nước công nghiệp phát triển, cũng như bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới.
Năm 2006, “Nghiên cứu thực trạng và định hướng: Quy hoạch xây dựng Vùng TP HCM” đã được Chính phủ phê duyệt, để trở thành điểm nút của mạng lưới kinh tế toàn cầu, hướng đến thành phố thế giới (World City), thành phố quốc tế (International City), thành phố toàn cầu (Global City).
Phát triển thành phố theo mô hình đa trung tâm giảm ùn tắc giao thông: Năm 2007, Nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch xây dựng TP HCM đến năm 2025 với dân số trên 10 triệu người và đã được Chính phủ phê duyệt theo mô hình thành phố đa trung tâm. Ngoài trung tâm chính Sài Gòn – Chợ Lớn – Thủ Thiêm còn có 4 trung khu vực là đô thị vệ tinh Tây Bắc Củ Chi phía Bắc, đô thị cảng Nhà Bè phía Nam, đô thị kỹ thuật cao Quận 9 phía Đông và đô thị phía Tây, đô thị Tân Tạo – Tân Kiên Huyện Bình Chánh, tạo nên cơ cấu đô thị hợp lý. Tuy còn cần khắc phục một số những tồn tại trong quá trình thực hiện như nguồn lực đầu tư và tiến độ chất lượng thực hiện nhưng đây là hướng phát triển đúng cho đô thị TPHCM trong tương lai.
Phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng. Giao thông đường bộ TPHCM được quy hoạch theo hướng thành phố mở sẽ nối liền các khu đô thị mới, các khu đô thị vệ tinh, các khu công nghiệp, các công trình đầu mối liên vùng (cảng biển sân bay) và được kết nối với cả vùng. Bên cạnh các tuyến giao thông trục chính đã được hoàn thiện như: cầu Phú Mỹ để nối dài đại lộ Nguyễn Văn Linh qua Quận 2, Quận 9 đến xa lộ Hà Nội là động lực để phát triển đô thị ra hướng Đông , trung tâm khu vực khu đô thị công nghệ cao Quận 9; mở rộng xa lộ Hà Nội – cửa ngõ ra vào bậc nhất TP HCM sẽ là động lực phát triển các cụm đô thị nén – hiện đại kết nối với với các trung tâm chuyên ngành ở Quận 9 và Quận Thủ Thiêm; Đại lộ Đông Tây (nay là đường Võ Văn Kiệt) hình thành Trung tâm thương mại dịch vụ khu vực hướng Tây, Tân Kiên – Bình Chánh; Đường Tân Sơn Nhất – Bình Lợi (nay là đường Phạm Văn Đồng)… cần gắn liền với hệ thống xe bus và xe bus nhanh (Bus Rapid Transit – BRT) để giảm ùn tắc giao thông. Tuy nhiên cũng cần kết hợp với các giải pháp quy hoạch giao thông khác như: đường sắt đô thị, đường sắt quốc gia, hệ thống tàu điện ngầm (metro) với xe lửa cao tốc nội đô khối lượng lớn (Urban Mass Rapid Transit – UMRT), xe điện trên mặt đất (Light Rail Transit – LRT) hoặc monorail, mạng lưới giao thông thủy, hệ thống cảng hàng không và các công trình giao thông tĩnh (bến xe, bãi đậu xe). Để hình thành một hệ thống giao thông vận tải công cộng đồng bộ kết nối đa trung tâm và kết nối trong vùng đô thị TPHCM.
Phát triển đô thị dựa vào định hướng giao thông công cộng (Transit Oriented Development – TOD) là mô hình phát triển tiên tiến đã được áp dụng nhiều nước trên thế giới.
Đô thị hóa phát triển nhà ở theo chiều đứng. Nhà ở tại TP HCM trước đây chủ yếu là nhà phố, nhà thấp tầng theo xu hướng “phát triển theo chiều ngang”. Những năm vừa qua kinh tế phát triển nhanh chóng đi cùng chính sách đổi mới đã làm xuất hiện một kiểu nhà mới đó là các khu phức hợp chung cư cao tầng. Theo hình mẫu của các nước phát triển, đô thị hóa theo chiều ngang đã chuyển ngày càng nhiều sang “đô thị hóa theo chiều đứng”. Hệ số sử dụng đất tăng đã tiết kiệm không gian cho việc mở rộng không gian xanh.
Xây dựng chính sách phát triển đồng bộ và bền vững nhà ở xã hội. Các đối tượng thu nhập thấp có nhu cầu rất lớn về nhà ở, nếu không có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở xã hội thì không thể đáp ứng được.
Xây dựng thương hiệu thành phố văn minh. Thành phố văn minh là thành phố có trình độ tổ chức và sinh hoạt cao, có đời sống văn minh đô thị, tất yếu phải được hình thành từ nếp sống cộng đồng.
Thành phố phát triển bền vững trên cơ sở hợp nhất đủ 4 tiêu chí do Ngân hàng thế giới (WB) đề ra: Kinh tế cạnh tranh (Competitiveness); Sống tốt (Liviability); Quản lý nhà nước tốt (Good Governance); Ngân hàng – tài chính lành mạnh (Bakability). Vấn đề quan trọng là mối quan hệ giữa các yếu tố nêu trên.
Thành phố sống tốt (Liveable City) dựa trên 3 thành phần tác động qua lại là môi trường lành mạnh (Healthy Environment), kinh tế sống động (Economic Vitalthy) và xã hội tốt đẹp. Một sự cân bằng giữa 3 thành phần nêu trên là yếu tố quyết định cho sống tốt và phát triển bền vững. Thành phố sống tốt còn là Thành phố vì dân (City for People), thành phố vị nhân sinh. Thành phố vì dân là sự hài hòa giữa xã hội tốt đẹp, môi trường sinh thái lành mạnh, kinh tế sinh động và văn hóa cộng đồng phong phú.
Thành phố cạnh tranh. Để thành phố cạnh tranh hơn thì cần hướng tới thành phố ven biển, thành phố đa truyền thông và thành phố thương mại. Hệ thống cảng biển tổng hợp cả công nghiệp, thủy hải sản, dịch vụ nghỉ dưỡng, du lịch đã phát triển thành các nút giao tiếp xuất khẩu nhanh chóng trong hệ thống toàn cầu. Trong tương lai TP HCM sẽ phải hội nhập vào “chuỗi các thành phố ven biển” để có thể phát triển nhanh. Thành phố sẽ là đầu mối (HUB) cho mọi phương tiện di chuyển và phân phối người, hàng hóa và viễn thông quan trọng trong vùng, quốc gia và quốc tế, hướng tới thành phố đa truyền thông.
Thành phố thương mại (Business City), với sự bùng nổ của Internet và thương mại điện tử (E – commerce), một kiểu mới về sự hợp tác và cạnh tranh trong thương mại toàn cầu nổi lên. Các thành phố phát triển mạnh trên nền tảng của công nghệ thông tin, về kinh tế có thể nắm lấy thuận lợi của siêu xa lộ thông tin (IT) để tôi rèn nền kinh tế mới và văn hóa, gắn kết với thành phố khác bất chấp quy mô và vị trí địa lý. Các giới hạn của thương mại dường như nghiêng hẳn về các thành phố, chúng có thể quản lý trí thức và các nguồn lực tài chính có hiệu quả. Các thành phố với các chính sách đúng đắn, hạ tầng cơ sở tiên tiến và nhiều tài năng sẽ được đặt vào vị trí tốt hơn để tạo ra một năng lượng đầy đủ của cuộc cách mạng về thông tin để sản sinh ra các sáng kiến và tạo ra môi trường đô thị tốt về sản xuất và tiết kiệm.
Quản lý nhà nước tốt. TP HCM là thành phố lớn (sẽ trở thành siêu thành phố vào năm 2025 với dân số khoảng 10 triệu) hiện đang phải đấu tranh với 3 xu hướng cực lớn: toàn cầu hóa, đô thị hóa và phân quyền hóa. Trong bối cảnh đô thị hóa và toàn cầu hóa, năng lực quản lý có thể tự nâng cao và có sáng kiến được thực hiện nếu được phân cấp, phân quyền cho chính quyền thành phố.
Thành phố phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu. TP HCM đang thiết kế “Thành phố nén” với hệ thống hạ tầng kỹ thuật tích hợp và thông minh theo đặc điểm khí hậu, địa hình, đặc trưng của đô thị, điều kiện thực tế, tận dụng quỹ đất hiệu quả. Với mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển thành phố lồng ghép với biến đổi khi hậu và xây dựng đề án “Chiến lược TP HCM phát triển ra biển Đông (theo hướng sông Soài Rạp)”, hướng đến thành phố xanh, thành phố các – bon thấp thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
Thành phố xanh (Green city) có thể hiểu theo nghĩa rộng: trước hết là thể hiện một đô thị sinh thái (eco – city) nơi tỷ lệ đáng kể của cây xanh góp vào sự cân bằng sinh thái trên một địa bàn quần cư đông đúc. Tiếp đó, thể hiện một đô thị phát triển bền vững (sustainable city) nhờ kết cấu hạ tầng đủ khả năng khai thác hợp lý nguồn tài nguyên và ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu, cuối cùng nó diễn đạt một thành phố thông minh (Smart city) hoặc thành phố đa truyền thông (Multimedia city) nhờ tích hợp công nghệ thông tin vào quản lý điều hành và phục vụ dân sinh.
TP HCM sẽ kết hợp công viên cây xanh đôi bờ với mặt nước các sông Sài Gòn, Đồng Nai, Nhà Bè và kênh rạch trong thành phố. Để giảm thiểu khí thải nhà kính, chiến lược lựa chọn là “thành phố các-bon thấp” để có hạn ngạch khí phát thải nhà kính tham gia thị trường các-bon quốc tế. Thành phố các-bon thấp luôn song hành với tăng trưởng xanh.
“Sau nửa thế kỷ chiến tranh và nghèo đói, TP HCM đang gấp gáp bước về phía trước với những kế hoạch khổng lồ về mở rộng và phát triển đô thị, quyết tâm đọat lấy vị trí xứng tầm là một trong những đô thị hàng đầu của thế giới”./.
Nguyễn Đăng Sơn
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đô thị & Phát triển Hạ tầng
TẠP CHÍ KIẾN TRÚC VIỆT NAM