13/08/2018

Khai thác yếu tố thuộc địa để trở thành lợi thế phát triển di sản đô thị toàn cầu

(Tạp chí KTVN) – LTS: Lịch sử và sự hình thành các công trình kiến trúc cảnh quan thời thuộc địa đã đánh dấu một bước phát triển mới ở các đô thị lớn của Việt Nam. Khai thác yếu tố thuộc địa để trở thành lợi thế phát triển đô thị di sản toàn cầu là điều nên hướng tới.

Ngược dòng lịch sử, ghi chép cho thấy nhiều vùng đất, khu thành thị ở Châu Á, trong đó Đông Nam Á từng là thuộc địa của nhiều cường quốc thế kỷ trước. Một số ví dụ như: Singapore; Thượng Hải, Hong Kong (Trung Quốc) từng là thuộc địa Anh; Malacca (Malaysia)- thuộc địa của Bồ Đào Nha và Hà Lan. Ở Việt Nam, thời kỳ Pháp thuộc kéo dài gần 80 năm kể từ năm 1867, đất nước bị phân chia thành 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ dưới cơ cấu hành chính (thuộc địa và bảo hộ) khác nhau. Trải qua nhiều thăng- trầm cho đến ngày nay, một số nơi ”từng là thuộc địa’ đã trở thành tâm điểm trong mạng lưới” thành phố toàn cầu’ trên thế giới – sau khi chuyển đổi thành công từ các đô thị ‘có tính di sản thuộc địa’ (gọi chung là Đô thị di sản thuộc địa) bởi những nét đặc trưng riêng, quy mô vừa và nhỏ, đa dạng văn hóa Đông-Tây. Ở đó, đặc điểm “thuộc địa” đã được chú tâm, lưu giữ, khai thác và phát huy trở thành lợi thế tại các quốc gia này thúc đẩy phát triển kinh tế, du lịch và văn hóa – xã hội. Đây có thể là cách làm hữu hiệu ứng xử với các di sản đô thị tại Việt Nam để phát triển các đô thị di sản với nhiều lợi thế và tiềm năng di sản thuộc địa chưa được phát huy có hiệu quả để tạo dựng thương hiệu đô thị và vươn tầm toàn cầu.

Bảo tồn di sản khu trung tâm phố cổ TP Maclaca (Malaysia) góp phần tạo nên thương hiệu đô thị di sản toàn cầu

Bảo tồn di sản khu trung tâm phố cổ TP Maclaca (Malaysia) góp phần tạo nên thương hiệu đô thị di sản toàn cầu

ĐÔ THỊ DI SẢN “THUỘC ĐỊA” VƯƠN TẦM “TOÀN CẦU” (COLONIAL TO GLOBAL)
Về mặt ngữ nghĩa, “đô thị di sản” là điểm, phạm vi đô thị hiện hữu hàm chứa, tập trung các nhóm, khuôn viên công trình (bản thân công trình) lịch sử, cổ và di tích, vết tích mang giá trị Di sản (về mặt vật thể) của cộng đồng, dân tộc, khu vực và vùng, quốc gia và nhân loại. Theo tuyên ngôn UNESCO về di sản, nguồn lực cho phát triển đô thị bao gồm các yếu tố: Tài nguyên, con người, văn hóa lối sống, công nghệ. Trong đó yếu tố di sản tuy không được nhắc đến trực tiếp nhưng lại là yếu tố xen cài trong cả 04 yếu tố trên, trở thành động lực tiềm năng cho phát triển bền vững đô thị. Nhiều ví dụ đã cho thấy một cách ứng xử tốt với di sản đô thị tại nhiều thành phố lớn trên thế giới đã góp phần tạo dựng tính bền vững – bản sắc – và thương hiệu đô thị, trở thành một trong 05 nguồn lực chính cho phát triển đô thị thời kỳ hiện đại.

Thượng Hải, đã từng là thuộc địa của Anh, với khu Tô giới Pháp là một ví dụ thú vị khi nó hầu như cắt đứt phần lớn giao tiếp với thế giới sau năm 1949. Thành phố – với phong cách kiến trúc và không gian Anh, Pháp và Châu Âu khác biệt và cổ kính – đã tự mình đứng lên sau khi bị sụp đổ (kết thúc thời kỳ thuộc địa và tồn tại 200 năm). Quá trình gây dựng lại hình ảnh vốn có của thành phố thuộc địa diễn ra ngay sau khi cải cách kinh tế mở cửa vào năm 1978 và vai trò của Thượng Hải định vị lại nhằm cạnh tranh với các nơi khác (như Thâm Quyến). Khu Tô giới Pháp – ”một Châu Âu thu nhỏ” hiện là một điểm đến đáng tự hào của Trung Quốc, với diện mạo mới, tầm vóc sánh ngang với nhiều quốc gia phát triển, thu hút lượng khách du lịch bậc nhất tới tham quan; đồng thời, là khu vực được người nước ngoài chọn lựa để sinh sống và làm việc.

Đối với Hong Kong, Gregory Bracken (2015) chỉ ra rằng: “mạng công nghệ thông tin và truyền thông” (ICT) dường như đã không thể thay thế ‘mạng xã hội’. Mạng xã hội nơi đây là nền tảng cho phát triển kinh tế bền vững trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế (về luật kinh doanh, thương mại, du lịch). Yếu tố này được thiết lập bởi người Anh nhằm đáp ứng quản lý khu vực thành thị và từ đó phát huy trở thành điểm nổi trội khác biệt. Kế đến, đội ngũ quản lý được đào tạo tại các trường danh tiếng ở Anh với tư tưởng và sự tập trung cao, Hong Kong – nơi chứa các thành phần đô thị lịch sử, đã trở thành trung tâm cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp cho mọi hoạt động thương mại. Thực tế, chủ nghĩa thuộc địa đã đi tiên phong bằng việc lồng ghép nhiều biện pháp tiên tiến “tiền – tư bản” và “tiền – công nghiệp”, đem văn minh Châu Âu vào giải quyết các vấn đề xã hội, chủng tộc, văn hóa để đưa vùng thuộc địa hòa nhập với nền kinh tế thế giới. Chính vì điều này mà Hong Kong từ một làng chài nhỏ đã vươn lên thành phố toàn cầu ngày nay.

Ví dụ khác, thành phố Malacca được mệnh danh là một Venice của Châu Á còn lưu giữ nhiều nét lịch sử lâu đời, đa sắc màu văn hóa phương Tây. Quy mô thành phố tương đương với đô thị cổ Hội An (Việt Nam). Nơi đây từng làng chài nhỏ lâu đời (từ năm 1403) nằm ở đầu mối giao thông quan trọng bậc nhất Đông Nam Á, thuộc eo biển Malacca, đã nhanh chóng thu hút thương lái người Hoa (TK15) sớm định cư quanh trung tâm. Từ TK16 đến TK19, hình ảnh đô thị chính đã được tạo dựng bởi người Bồ Đào Nha (130 năm), sau đó người Hà Lan (154 năm). Thời kỳ này, tòa nhà chính quyền thuộc địa được xây ở khu đồi St. Paul, trung tâm chính nằm dải bờ sông và được chia thành các ô phố thương mại. Sau này, thay bằng việc chia cắt trung tâm thành các ô phố nhỏ và nhóm văn hóa tách biệt, nơi đây đã hình thành các không gian phố đi bộ đan xen gắn kết xã hội, thúc đẩy hoạt động thương mại và du lịch hấp dẫn.

Gần đây nhất, Singapore, thuộc địa của Anh từ năm 1819 đến 1942, xác định các “sản phẩm không gian di sản” – phản ánh những ý thức của các thế hệ lãnh đạo và văn hóa nổi trội. Sản phẩm di sản này được phát huy một cách lô-gíc trên nền văn hóa chủ nghĩa tư bản kế thừa từ thời kỳ thuộc địa. Vì thế, đô thị di sản gắn chặt với nhận thức về kinh tế thị trường và phát huy giá trị gia tăng từ góc nhìn về quá khứ. Năm 1990, Quốc đảo này đã tích cực thúc đẩy di sản như một “sản phẩm du lịch” bằng việc (tái) tạo lại trung tâm đô thị lịch sử ngay tại khu vực giao thoa đa văn hóa – dân tộc nổi bật như: Chinatown, Kampong Glam, Little India và xung quanh các công trình thuộc địa Anh trước kia. Kết quả, trung tâm Singapore – nay đã trở thành không gian có đặc điểm riêng gắn với chức năng thương mại – đã và đang là điểm thu hút du lịch rất lớn. Điều này được xác định rõ trong chiến lược thành phố toàn cầu của Singapore.

Qua ví dụ trên cho thấy giá trị gắn với thời kỳ thuộc địa trong bối cảnh, không gian hiện đại hóa đã tạo nên nét đặc trưng, khác biệt và đem vào khai thác phát triển kinh tế hiệu quả. Một số nguyên tắc được vận dụng ở đây có thể nhận diện:
Khu vực còn tồn tại các đặc điểm (phi) vật thể thời kỳ thuộc địa;
– Vị trí, khu vực tập trung và có thể định ranh tương đối cụ thể;
– Bảo tồn, gìn giữ và phát huy những dấu tích – làm cơ sở tái dựng, khôi phục từng phần không gian kiến trúc, cấu trúc đô thị thuộc địa;
– Kết nối tiếp biến đa – văn hóa, hiện đại hóa giao thức đặc trưng bản địa (phi vật thể) trong khung cảnh đô thị và công trình cổ (vật thể);
– Làm gia tăng hàm lượng giá trị văn hóa thông qua cách tổ chức, sắp đặt không gian chủ đề phong phú, dòng lịch sử và phối kết hợp ngữ cảnh linh hoạt đa chiều;
– Ứng dụng mô phỏng, công nghệ tương tác bốn chiều (4D) nhằm thu hút, giúp du khách, cộng đồng khám phá thêm thông tin về nơi chốn cùng các chi tiết liên quan đến (thành phần) di sản văn hóa;
– Cung cấp đầy đủ các dịch vụ, tiện ích có chất lượng tại các vị trí dễ dàng tiếp cận và sử dụng công cộng.

Từ góc nhìn nền tảng trên, nhiều đô thị hiện hữu tại một số địa phương của chúng ta hàm chứa các nét tương đồng và phần nào phát huy giá trị đô thị di sản thuộc địa, nhất là các khu phố Pháp ở TP Hà Nội (phía Nam hồ Hoàn Kiếm), Huế (phía Nam sông Hương) và TPHCM (quận 1, 3 và một phần Quận 5). Tuy nhiên, mức độ thành công trong các đô thị này còn khiêm tốn so với các nước xung quanh. Việc nghiên cứu và tìm hiểu các “đô thị di sản thuộc địa” là hướng đi mới cho thấy TP Châu Đốc và Long Xuyên, tỉnh An Giang dường như ẩn giấu trong mình vốn liếng di sản kiến trúc, đô thị riêng còn lại ở khu vực Nam Bộ.

i sản đô thị công thành Dongdaemun được bảo tồn  tại trung tâm đô thị TP Seoul Hàn Quốc, trở thành một biểu tượng thương hiện đô thị

i sản đô thị công thành Dongdaemun được bảo tồn tại trung tâm đô thị TP Seoul Hàn Quốc, trở thành một biểu tượng thương hiện đô thị

PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN ĐÔ THỊ “THUỘC ĐỊA” VƯƠN TẦM TOÀN CẦU TẠI TP CHÂU ĐỐC VÀ LONG XUYÊN (AN GIANG)
Vị trí và bối cảnh lịch sử

An Giang hiện có vị trí “trung tâm không gian” giữa các điểm đô thị tầm cỡ quốc tế ở phía Tây- Nam Bộ. Các điểm đô thị kể đến gồm: TPHCM (phía Đông), TP Cần Thơ, sông Hậu thông thương cửa biển Định An và Trần Đề (phía Đông Nam), TP Cà Mau, cửa biển kết nối khu vực ĐNÁ (phía Nam), đảo ngọc Phú Quốc, Vịnh Thái Lan (phía Tây), TP Phnôm Pênh (phía Bắc). Đây là Tỉnh chứa nhiều đặc trưng riêng mang dấu ấn của nền văn hóa đa sắc thái – dân tộc trong khu vực ĐBSCL.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thủy (2004) cho thấy, An Giang từ TK1 đến TK7 là một điểm quần cư quan trọng thuộc lãnh thổ nước Chí Tôn (Naravara) ở miền Tây sông Hậu. Khởi đầu, nơi đây mạnh hơn nước Phù Nam về kinh tế với thương cảng Óc Eo – lớn nhất Đông Nam Á thời đó. Tuy vậy, trên cơ sở sức mạnh “thành phố của những thợ săn”, Phù Nam dần khống chế các nước xung quanh (Bassak, Nagarava…) và biến Chí Tôn thành một tiểu quốc của vương quốc Phù Nam. Ngoài ra, nơi đây cũng từng là nơi diễn ra cuộc chiến dài giữa Campuchia và Chămpa (giai đoạn 1113-1220) trên sông Tiền, sông Hậu. Qua đó cho thấy, An Giang trở thành đầu mối giao thông thương mại chiến lược; đồng thời, là trung tâm tiếp nhận văn hóa nước ngoài và Ấn Độ. Sự phồn vinh của vương quốc Phù Nam tồn tại khoảng 6 thế kỷ – đầu công nguyên. Khi đó, An Giang là một khu đô thị sầm uất có lớp văn hóa cổ Óc Eo – Ba Thê (Vọng Thê – Thoại Sơn), đá Nổi (Phú Hòa – cách Thị xã Long Xuyên khoảng 7 km), Định Mỹ (núi Sập), Tráp Đá (núi Chóc), Lỗ Mô (Châu Phú), Núi Sam, Phum Quao, Trà Cột (Tịnh Biên) và Đam Pô (Tri Tôn).

Trong TK8, người Khơme đã đến An Giang cư trú rải rác trên những vùng đất (giồng) cao ven sông thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp. Tiếp đến đầu TK18, cư dân Việt (chủ yếu binh lính theo Nguyễn Hữu Cảnh, người khai phá đầu tiên vùng đất An Giang) đã có mặt từ Chợ Mới đến Cái Hố. Sau đó, sự kiện bàn giao đất Tầm Phong Long vào năm 1757 đánh dấu đất An Giang trở thành một bộ phận không thể tách rời của nước ta.

Những giá trị “Tiền – Đô thị” và “Hậu- Thuộc địa” tiềm ẩn
Di tích Óc Eo cho thấy hình ảnh một đô thị cổ với nhiều di chỉ cư trú, sản xuất đạt đến trình độ cao về kiến trúc và kĩ thuật xây dựng. Khu vực Óc Eo là một trong những trung tâm hành chính, tôn giáo và xung quanh là quần thể các khu dân cư rộng với nhà sàn và mạng lưới kênh đào thủy nông (trên 200 km) và cảng chính Óc Eo nằm sâu trong đất liền (cách biển gần 5km). Ngoài ra, các tiền – cảng như: Trăm Phố, Ông Ngọc, Cần Giờ đều có mối quan hệ với trung tâm giao thương Óc Eo bằng những con sông và kênh đào. Hệ thống cảng này gắn với đường thủy nối liền các con sông lớn và đổ ra biển Tây Nam cho thấy cảng rất phát triển hoạt động buôn bán với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Ở lối tụ cư, người Việt, Hoa, Khơme, Chăm đã sử dụng đường thủy, đường bộ di chuyển đến Châu Đốc- núi Sam, để buôn bán tại những đầu mối giao thông thuận lợi. Chợ ở Châu Đốc được hình thành khiến cho bộ mặt vùng Châu Đốc thay đổi trở thành trung tâm kinh tế của cả vùng. Trong khi đó, người Hoa ngày càng đông đảo ở Tân Châu, Châu Đốc và Châu Phú. Rồi năm 1840, khâm sai Lê Văn Đức từ trấn Tây Thành rút về Châu Đốc cùng một số người Chăm (hồi giáo, quân thiện chiến) về cư trú và định cư (phân bố thành 9 làng vào năm 1854 và 1858) dọc theo sông Hậu nhờ chính sách ‘tận dân vi binh’ của vua Thiệu Trị. Những năm 40 TK19, dân cư ở các tỉnh miền Trung tìm tới vùng Năng Gù (do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn) để lập làng Năng Gù. Đến năm 1860, người tôn giáo ở An Giang tiếp tục về Châu Đốc để lánh nạn.
Theo đặc điểm làng xóm, người Việt, Hoa ở An Giang sống tập trung, xen kẽ trong các làng. Làng không lũy tre, nhà không rào. Trong mỗi làng đều có một ngôi đình làm nơi sinh hoạt của làng. Còn người Hoa sống trong làng cùng những người chung hoàn cảnh, gốc gác, ngôn ngữ, ngành nghề và tuân thủ những quy ước của làng. Họ cũng tiến hành xây dựng miếu ông Bổn và miếu bà Thiên Hậu ở mỗi làng. Người Chăm cất nhà sàn ở dọc theo bờ sông, bờ kênh và không ở dạng quây quần mà tổ chức nhà thành từng dãy và lối đi ở giữa. Người Khơme sống tập trung trong các Phum và chùa Khơme trở thành trung tâm tôn giáo, văn hóa, xã hội, nơi bảo lưu và truyền kế di sản văn hóa.

Đối với công trình nhà ở, nhà sàn (cao cẳng) được người Khơme, Chăm, Việt, Hoa sử dụng để ở phía trên; chăn nuôi, kho vật liệu bên dưới và rất thích hợp những mùa nước nổi. Người Khơme cất nhà nơi cao ráo, đất giồng ven núi hoặc ven các đường mòn. Trong khi đó, người Việt, Hoa, Chăm cất nhà theo các kênh, rạch, bờ sông và ưu tiên mặt tiền quay ra mặt sông. Nên, dân cư thường tập trung đông tại những nơi giáp mặt nước, ngã ba (tư) sông, để rồi hình thành nên điểm quần cư- trao đổi mua bán ‘trên bến dưới thuyền’. Chính vì lối tụ cư, phong tục tập quán của cư dân bản địa mà hầu như các điểm dân cư xưa phát triển tự do theo kiểu “làng xóm nông nghiệp”, “buôn bán gắn với sông nước”.
Khi người Pháp chính thức can thiệp vào Việt Nam, nhiều thay đổi diễn ra ở khu vực Nam Kỳ và Đông Dương về sau. Giai đoạn 1880 – 1930, Pháp đã xây dựng Đông Dương qua chính sách của toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut nhằm khai thác thuộc địa ứng với hoàn cảnh thực tế. Khu vực phía Tây Nam Kỳ, người Pháp đã mở rộng lãnh thổ thuộc địa với chế độ bảo hộ sang phần đất Campuchia (1863) và định ra khu vực thuộc địa của Pháp qua hiệp ước năm 1884. Như vậy, không gian ‘thuộc địa mới’ được mở rộng và không còn đơn thuần “Việt Nam” nữa. Kế tiếp, người Pháp đã khép kín để xây dựng vùng thuộc địa riêng này. Bước đầu, quy hoạch đô thị được thực hiện bằng lối tư duy “công binh” thời kỳ đế chế Louis Đệ Tam, “kiểu ô cờ” được áp dụng nhiều thành phố lớn nhỏ từ Nam ra Bắc. Đây dường như trở thành hình mẫu đô thị hiện đại tại thời điểm đó dưới sự thống trị của Pháp tại Nam Kỳ nói chung và An Giang nói riêng.

Song song, họ xây dựng hệ thống hạ tầng, trường học và trụ sở để phục vụ cho quản lý và phát triển thuộc địa. Việc giới thiệu hệ thống và phương tiện giao thông mới (ô tô, tàu hỏa, tàu thủy hơi nước) đã liên kết Nam Kỳ với Campuchia hình thành không gian thương mại và đô thị mới có tính chất liên vùng quốc tế. Từ đó, xu thế di cư “Nam tiến” của người Việt dần chuyển sang “Tây tiến” phục vụ cho sự phát triển kinh tế chính trị Đông Dương. Và Châu Đốc, Long Xuyên trở nên quan trọng hơn trong trục không gian kết nối Đông-Tây và Nam Kỳ. Hai điểm đô thị trên một dòng sông đã dần phát triển theo hình thức thành phố phương Tây hiện đại tại thời kỳ đó. Lối tổ chức “ô cờ” kết nối sông Châu Đốc với trục giao thông chính (đường Thủ Khoa Nghĩa ngày nay) cho thấy sự kế thừa lối sinh hoạt và giao thương “trên bến dưới thuyền” của người Việt và Hoa. Đi cùng với hình thái đô thị đặc trưng đó là hệ thống các ô phố khá rõ cùng các công trình kiến trúc tiêu biểu.

Trước đó dưới thời vua Gia Long (1757), Châu Đốc từng được xem như kinh đô của An Giang xưa, trung tâm một vùng rộng lớn. Rồi Châu Đốc được người Pháp dùng làm nơi trông giữ một vùng bao trùm Long Xuyên (Long Xuyên va Sa Đéc ngày nay). Người Pháp đã cho xây dựng nhiều công trình trụ sở, nhà ở phục vụ dân sinh (chợ, trường học…) mang đặc điểm kiến trúc Pháp, Pháp – Việt phục vụ bộ máy cai trị và công chức chính quyền tại Châu Đốc và Long Xuyên. Ngoài chợ Châu Đốc (xây năm 1876) còn có đình Thần Châu Phú, Thoại Ngọc Hầu, nhà các quan chức và người dân. Ngôi biệt phủ xứ Trương Tấn Dĩ, xây năm 1921, còn gìn giữ kiểu dáng ban đầu, trang trí kiểu Pháp cho đến ngày nay.

Qua các giai đoạn thăng trầm của vùng đất Nam Bộ, cấu trúc Long Xuyên xưa đã thay đổi khá nhiều và có phần hiện đại cho một thành phố trẻ và năng động. Tuy nhiên về lịch sử đô thị, Long Xuyên dường như xuất phát từ cồn đất cao rộng, bao quanh bởi sông Hậu, rạch Rạch Giá- Long Xuyên, cầu Quay. Bản đồ năm 1920 đã chỉ ra cấu trúc đô thị ở đây được hoạch định theo mạng lưới “ô cờ” và trải dọc bên bờ sông Hậu.

Có thể thấy một số công trình còn tồn tại đến nay đã phản ánh hình ảnh đô thị thuộc địa ở Châu Đốc và Long Xuyên. Đầu tiên, phong cách kiến trúc Pháp (Cổ điển, Tân cổ điển, Romance, Modernism, Art Noveau, Art Deco) như: nhà thờ Năng Gù, dinh Tham biện Châu Đốc, nhà thờ Cù lao Giêng, dinh Tham biện Long Xuyên, cầu Hoàng Diệu, cầu Quay, trường Tiểu học Pháp- Việt, nhà Thờ Cái Đôi. Tiếp đến, kiến trúc giao thoa (Pháp-Việt) và Đông Dương gồm: biệt thự tại Châu Đốc, bệnh viện Long Xuyên, rạp chiếu bóng Nam Xương, trường Trung học Long Xuyên, đình Thần Bình Long, đình Thần Bình Mỹ, đình Châu Phú, miếu Bà Chúa Xứ-Núi Sam, thánh đường Hồi giáo Chăm, lăng Thoại Ngọc Hầu và hồ Ông Thoại.

THAY CHO LỜI KẾT
Đô thị di sản là nền tảng cho nhiều nơi chốn nắm bắt và phát huy các giá trị vốn có, tiềm ẩn mà trong đó liên quan đến “tính thuộc địa”- bứt phá trở thành các đô thị toàn cầu trên thế giới. Thượng Hải, Hong Kong, Malacca, Singapore và nhiều khu vực khác nữa đã trở thành những hình mẫu cho chúng ta học hỏi trước xu hướng phát triển nền kinh tế 4.0. Xét về lịch sử hình thành, vùng đất An Giang hàm chứa những chuỗi giá trị văn hóa-lịch sử (phi vật thể) cùng không gian, công trình kiến trúc, cảnh quan (vật thể) đều có mối liên kết chặt trẽ phản ánh các giai đoạn thịnh vượng của chính nó. Trong xu thế phát triển mới hiện nay, từ ví dụ của hai thành phố Châu Đốc và Long Xuyên cho thấy những yêu cầu đòi hỏi “tầm nhìn chiến lược” xa hơn trước bối cảnh đô thị lịch sử có tính ‘thuộc địa’ sớm đóng vai trò và tầm ảnh hưởng “toàn cầu” từ những khám phá mới và phát huy hệ thống giá trị ẩn sâu trong các nơi chốn, công trình kiến trúc, cảnh quan, cấu trúc và thành phần di sản./.

TS.KTS  NGÔ MINH HÙNG  |  TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH