Chiến lược phát triển nền kinh tế biển xanh và bài toán tổ chức không gian đô thị biển
(KTVN) – Biển đảo là phần lãnh thổ quan trọng, đặc biệt của Việt Nam, qua ngàn đời luôn gắn chặt với đời sống của người dân Việt. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chúng ta chưa nhận thức hết được giá trị và tầm quan trọng, tiềm năng to lớn của biển. Do đó, mức độ phát triển đô thị biển ở nước ta mới chỉ phát triển ở dải ven biển và theo hướng tự phát, chưa phát huy hết được tiềm năng, vẻ đẹp vốn có của nó; Đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến cảnh quan thiên nhiên hoang dã, phá vỡ thế mạnh của không gian biển, đảo. Vậy, những vấn đề đặt ra với biển trong phát triển kinh tế biển xanh và bài toán tổ chức không gian đô thị biển hiện nay cần đặt ra những vấn đề gì? Và tận dụng không gian ở đảo làm du lịch như thế nào?
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi – Đại biểu Quốc hội khóa XV, Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên & Môi trường) đã có những chia sẻ với Tạp chí Kiến trúc Việt Nam về góc nhìn, nhận định và hướng giải cho bài toán tổ chức lại không gian kinh tế biển hiện nay. Đồng thời, có những đánh giá thực trạng phát triển của các đô thị biển hiện hữu và đề xuất một chiến lược phát triển các “cực kinh tế biển” trong mối quan hệ với “chuỗi đô thị ven biển” và “chuỗi đô thị đảo”. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
PV: Việt Nam có lợi thế bờ biển trải theo chiều dài lãnh thổ, đem lại những tiềm năng, dài, tuyệt đẹp, có nhiều điều kiện để tạo nên các cực phát triển kinh tế ven biển và trên biển, vậy theo Phó giáo sư, chúng ta phải làm thế nào để phát triển và tạo sức mạnh xâu chuỗi mối liên kết này?
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi: Trả lời câu hỏi này chính là việc giải bài toán tổ chức lại không gian kinh tế biển, đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược, tổng thể, toàn diện cùng với các giải pháp có tính đột phá.
Trong đó, phát triển đúng hướng, hiệu quả các chuỗi đô thị ven biển và chuỗi đô thị đảo (sau đây gọi chung là đô thị biển) sẽ tạo nên các điểm cực phát triển tốt trong mỗi chuỗi. Không chỉ tốt cho chính điểm cực mà còn góp phần tạo động lực lan tỏa, tác động mạnh trở lại những vùng đất nội địa chứ không chỉ là đất liền tác động đến khu vực ven biển và biển, đảo như hiện nay. Đồng thời, cũng tác động mạnh đến không gian biển rộng lớn của đất nước.
Ngoài ra, đây còn là bài toán của địa kinh tế, địa chính trị, gắn phát triển kinh tế – xã hội với bảo vệ các quyền và lợi ích của nước ta trên biển Đông trong bối cảnh khu vực biển này là không gian chịu ảnh hưởng của các chiến lược nước lớn: Sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và chiến lược “Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và mở“.
Vì vậy, muốn phát triển các cực kinh tế biển thúc đẩy liên kết vùng trong phát triển kinh tế biển, ven biển thì phải xem xét kết nối các đô thị ven biển cũ và mới, sớm hình thành chuỗi đô thị đảo, đặt chúng trong một chỉnh thể không gian ven biển, biển, đảo.
Trước tiên, xem thử việc chỉnh trang, nâng cấp các đô thị biển cũ như thế nào, theo mô hình nào? Hình thành các đô thị biển mới theo nguyên lý nào?
PV: Có nhiều ý kiến cho rằng, các đô thị biển ở nước ta đang phát triển manh mún, thiếu bài bản. Vậy theo Ông, khi quy hoạch không gian đô thị biển cần tính toán như thế nào? Liệu có mô hình, chiến lược mới nào để phát triển đô thị biển trong tương lai không? Thưa Phó giáo sư.
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi: Theo tôi, các đô thị biển cũ như TP Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế,… và các khu đô thị mới tiềm năng như Dung Quất, Vũng Áng là những đô thị biển hình thành một cách tự nhiên, dựa trên định hướng mối quan hệ giữa cảng, biển, đô thị.
Trên cơ sở xem xét, nghiên cứu sẽ tìm ra mô hình mới đa dạng, hiệu quả, thích hợp, kế thừa và độc đáo. Ngoài đảo cũng vậy, đô thị đảo phải có mô hình riêng, thuận thiên và dựa vào biển là chính chứ không phải dựa vào đất trên đảo. Vì thế, kinh tế đảo cũng định hướng dựa vào bảo tồn vốn và tài sản tự nhiên biển, đảo, xanh và bền vững. Khi đó, các đô thị đảo sẽ được kiến thiết theo hướng đô thị đảo xanh, một cực giao thương trên biển và kết nối với đất liền.
Muốn kết nối chuỗi đô thị biển bao gồm đô thị trên biển, đô thị ven biển, và đô thị đảo thì cần dựa trên 3 yếu tố cơ bản là không gian biển, không gian đảo và không gian ven biển. Khi quy hoạch không gian một đô thị biển phải tính đến 3 mảng không gian nói trên. Đây là điểm khác cơ bản so với quy hoạch phát triển các đô thị đất liền.
Dù không phải sớm nhưng chiến lược hướng tới một nền kinh tế biển xanh đã được xác định. Để từ đó chúng ta có những quyết sách phát triển cụ thể, trong đó có công tác quy hoạch các đô thị biển.
Sau khi đã xác định được mô hình đô thị biển, các nhà chuyên môn, kiến trúc đô thị và quy hoạch đô thị phải nghiên cứu kỹ, có trách nhiệm, thận trọng, khách quan để có được các chuẩn mực đô thị biển, là mô hình tham khảo khi quy hoạch và kiến trúc một đô thị cụ thể ở ven biển hoặc trên đảo. Khi đó, sẽ tránh được bệnh hội chứng sao chép phong cách trong phát triển đôi khi vẫn gặp hiện nay. Giống như cách “bê mảnh vỡ” nham nhở của một đô thị cũ ven biển áp đặt ra một hòn đảo có thiên nhiên hoang dã, phá vỡ thế mạnh của không gian đảo.
Đô thị biển không chỉ là đô thị mà phải là cực đô thị tăng trưởng trên không gian biển, phải là điểm nối kết các điểm cực tăng trưởng trong 3 mảng không gian biển, đảo và ven biển nói trên.
PV: Vậy thưa Ông? Chúng ta cần nhận diện quy mô của các cực kinh kinh tế biển như thế nào để không làm mất đi giá trị cốt lõi của đô thị biển, đặc biệt đô thị đảo? Vấn đề an ninh quốc gia, lợi thế cạnh tranh và khả năng hội nhập trên biển sẽ bị ảnh hưởng ra sao nếu không nhận thức rõ vấn đề này?
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi: Có thể thấy, một số quốc gia, ngoài phát triển các đô thị ven biển đã có những đô thị đảo nổi tiếng từ những thế kỷ trước, đô thị trên các đảo nhân tạo, đô thị nổi trên biển gắn với cảng biển nổi, sân bay nổi,… đã và sẽ được xây dựng.
Các dạng đô thị biển này được xây dựng ban đầu từ vốn tự nhiên và vốn con người, quá trình phát triển sẽ tích tụ dân số và tăng vốn xã hội. Do vậy, cũng có những giá trị đã bị hoặc sẽ phải bị đánh đổi bên cạnh những giá trị đặc thù còn tồn tại và những giá trị đặc hữu cần phải giữ lại.
Như tên gọi của nó, đô thị biển phát triển dựa vào biển thay vì dựa vào đất như các dạng đô thị trên đất liền thông thường. Tùy theo vị trí, cơ sở của đô thị biển phải là thế mạnh của kinh tế biển, kinh tế ven biển và kinh tế đảo. Hiện gặp trở ngại do kinh tế biển được hiểu là kinh tế tổng hợp, bao gồm cả kinh tế của các xã, huyện ven biển, hoặc thậm chí tính cả kinh tế toàn tỉnh ven biển.
Sự thiếu sót trong nhận diện quy mô của kinh tế biển đã làm mất đi giá trị cốt lõi của nó và ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về đô thị biển, đặc biệt đô thị đảo. An ninh quốc gia, lợi thế cạnh tranh và khả năng hội nhập trên biển cũng theo đó bị suy giảm, bị đẩy lùi vào thị trường nội địa ngày một eo hẹp và bấp bênh.
Chính những áp đặt cách hiểu chủ quan về tiềm năng không gian biển cũng dẫn đến những thiếu sót trong việc xác định quy mô và hình thái đô thị biển với 3 loại hình đô thị nói trên. Yếu tố biển phải được đưa vào trung tâm của bài toán phát triển đô thị đảo thay vì phát triển thuần túy dựa vào việc chia lô, bán nền như ở một số đô thị đảo đang “phôi thai” hiện nay.
Ví dụ, giá trị thực sự của Phú Quốc nằm ở các hòn đảo vệ tinh, cách đảo mẹ Phú Quốc chừng 3-10km, có những rạn san hô ngầm, các bãi cỏ biển với các quần xã sinh vật biển đa dạng, phong phú, cùng các bãi cát biển, gò ngầm dài ngắn khác nhau rất đẹp. Chính các giá trị dịch vụ tự nhiên biển như vậy đã tạo cho Phú Quốc sự hấp dẫn đến lạ thường.
Sự hoang sơ của biển cả vẫn chưa được đánh giá đúng chân giá trị “biển bạc”, mà các giá trị trước mắt của “đất vàng” vẫn hấp dẫn không chỉ các nhà đầu tư bất động sản mà còn cả một số nhà hoạch định chính sách và quy hoạch.
Cách nghĩ, cách làm như thế sẽ hướng đến các quyết định lấn biển bằng mọi giá để tạo thêm quỹ đất, không hoặc ít chú trọng gìn giữ, bảo vệ các nguồn vốn và tài sản tự nhiên, giá trị để đời của biển, trong khi nguồn vốn quý giá này có biểu hiện tiêu hao.
Ngoài ra, các các cụm đảo Cô Tô, Vân Đồn (Quảng Ninh), Cát Hải, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa -– Vũng Tàu) là những địa điểm phát triển đô thị đảo tiềm năng, trong chừng mực nhất định, cũng đang vấp phải những vấn đề cụ thể mà chỉ có đặt vào tổng thể mới tháo gỡ được.
PV: Thực tế cho thấy tốc độ đô thị hóa nhanh đã kéo theo hệ lụy đáng tiếc, đánh mất giá trị cảnh quan tự nhiên, bản địa của biển, đảo… Theo PGS, để tận dụng nguồn tài nguyên vô hạn, hướng tới phát triển bền vững, vai trò của công tác quy hoạch nhằm phát huy giá trị đặc thù về kiến trúc đô thị biển cần được triển khai ra sao?
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi: Chúng ta cần công nhận và sử dụng khôn khéo các giá trị của cảnh quan thiên nhiên và các hệ sinh thái biển, đảo như là nguồn vốn phát triển dài hạn; thiết kế và lựa chọn các mẫu hình kiến trúc đô thị xanh, thân thiện với tự nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp văn hóa bản địa.
Sự giống nhau và đơn điệu đến nhàm chán của các khối nhà bê tông lạnh lẽo và thiếu vắng cơ sở hạ tầng tự nhiên ven biển, đảo đang ngăn cách con người với thế giới tự nhiên và hương vị biển, đánh mất giá trị bản địa. Điều này chẳng những không đem lại các giá trị đặc thù về kiến trúc đô thị biển mà du khách và người dân chỉ có thể nhìn thấy những “mảng biển xanh” qua khe hở của các bức tường bê tông. Đôi khi gây hiệu ứng khi mưa lũ về biến các đảo ngọc thành đảo ngập giữa biển khơi.
Hội chứng phát triển đô thị, đa phần còn chung chung, dường như đã xảy ra ở nước ta, từ trên miền núi xuống đồng bằng và ra đến ven biển. Mặc dù gần đây xuất hiện một vài đô thị ven biển phát triển bước đầu đúng hướng như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Vũng Tàu,…
Những giá trị về lợi thế so sánh, tính trội, sự khác biệt và tính liên kết của một vùng đô thị ven biển chưa được quan tâm, tận dụng trong quá trình phát triển nên dần bị suy thoái, lãng phí tài sản tự nhiên.
Thêm nữa, cần chú ý làm rõ chức năng trung tâm của hệ sinh thái đô thị biển đa chiều. Một hệ sinh thái đô thị bao giờ cũng là thành phần của một hệ thống lớn hơn và đồng thời lại bao chứa một hoặc nhiều hệ thống nhỏ hơn.
Do đó, thông qua tương tác đa chiều, đô thị kiểu này hội tụ các nguồn lực, các dòng vật chất cả bên trong lẫn bên ngoài và cứ thế phát triển. Khi đó, đô thị mới có thể phát huy được khả năng tích tụ, không chỉ đối với đất đai mà còn đối với dân số biển đảo, gia tăng nhu cầu nội vùng và tạo động lực phát triển kinh tế của chính đô thị và vùng xung quanh.
Ví dụ, Thủ đô Hà Nội không thể phát huy ảnh hưởng và điều khiển nền kinh tế cả nước tốt nhất, trực tiếp là vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nếu như thiếu vai trò “sải tay nối dài” của chuỗi đô thị ven biển Hạ Long – Hải Phòng – Thái Bình – Nam Định – Ninh Bình – Thanh Hóa. Do đó, quy hoạch đô thị không chỉ dừng ở quy mô một đô thị, mà cần được xem xét nó trên quy mô của một hệ sinh thái, đặc biệt động lực lan tỏa và khả năng liên kết vùng.
PV: Và câu hỏi cuối cùng KTVN xin gửi tới Ông là Chúng ta cần có những tư duy và tầm nhìn dài hạn như thế nào để tái cơ cấu kinh tế biển gắn với yếu tố tự nhiên, kinh tế, con người và văn hóa, nhưng vẫn tạo động lực để phát triển mạnh mẽ?
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi: Trong quá trình phát triển các loại hình đô thị biển nên xác định mô hình đô thị biển như là một hệ sinh thái đô thị biển đa chiều, đa phương, đa diện, đa dạng và đa dụng. Mô hình đô thị biển có đầy đủ chức năng và cấu trúc của một hệ sinh thái tự nhiên, nhân sinh, có các dòng vật chất tương tác bên trong và bên ngoài hệ thống. Mô hình vừa hiện đại, vừa dân tộc; bảo đảm an ninh, an toàn và an sinh; và vừa có tính đặc thù vùng miền cho một đô thị ven biển, đô thị đảo hay đô thị trên biển.
Ví dụ, ở nước ta, mô hình đô thị biển gắn với cảng biển chiếm đa số cả trong quá khứ, cũng như tương lai. Trong khi, Quảng Ninh có thế mạnh về biển rất lớn, ngay từ thời người Việt cổ đã xây dựng cảng Vân Đồn ngoài biển xa nhưng nay vẫn đứng trước sự lựa chọn trong dài hạn về mô hình đô thị ven biển hoặc TP Hạ Long gắn với cảng Cái Lân hay đô thị Hạ Long gắn với giá trị di sản toàn cầu vịnh Hạ Long và các nguồn vốn tự nhiên biển khác.
Bài toán mà Quảng Ninh phải giải là thay đổi tư duy và tầm nhìn dài hạn, tái cơ cấu kinh tế biển dựa vào việc cân bằng giữa lấn biển để mở rộng quỹ đất và tìm cách tiến ra biển bằng đầu tư bất động sản, với ưu tiên đầu tư phát triển các ngành kinh tế dựa vào bảo tồn biển.
Nếu như vậy, đô thị Hạ Long không còn là mô hình đô thị, cảng biển mà là đô thị xanh, thông minh đa dụng. Còn Quảng Ninh vẫn thừa dư địa để tiên phong xây dựng một mô hình đô thị biển, đảo theo đúng nghĩa gắn với cảng biển nước sâu ven đảo và một hệ thống cầu – đường vượt biển hợp lý, chứ không phải ven biển như cảng Cái Lân và phát triển dựa vào bờ như hiện nay.
Bên cạnh đó, cần ủng hộ sáng kiến xây dựng một mô hình đô thị biển cấu trúc đa chiều, vì đô thị vốn là một thực thể mang tính nhân văn, hay nói cách khác cũng là một hệ sinh thái được con người tạo ra từ chính các nguồn lực trong tự nhiên. Hệ sinh thái đa chiều lồng ghép cả 4 yếu tố chính, tự nhiên, kinh tế, con người và văn hóa, nhưng vẫn đảm bảo chức năng riêng để hệ tồn tại và tính liên kết với các hệ sinh thái khác xung quanh để hệ phát triển.
Do đó, cần xác định rõ cấu trúc, chức năng và các dòng quan hệ nội tại của đô thị và các tương tác với môi trường xung quanh. Theo đó, chính quyền đô thị cũng phải đảm bảo đủ khả năng quản lý đô thị đa chiều với các vấn đề đa ngành, liên ngành dựa trên cấu trúc liên thông, kết nối đã được nghiên cứu, đánh giá và tiềm năng phát triển dài hạn. Trong đó, quan trọng nhất là chất lượng nguồn nhân lực, nhất là lãnh đạo có kỹ năng quản lý phát triển.
Con người là một thành tố quan trọng của hệ sinh thái đô thị biển đa chiều, cần được quan tâm, phát triển độc lập nhưng vẫn phải tương tác với các thành tố khác và các mối liên kết của hệ sinh thái đô thị này.
Cuối cùng, cần xác định tính trội của một hệ sinh thái đô thị biển đa chiều là một trong 3 thuộc tính vốn có trong mỗi hệ thống là tính trội, tính đa dụng và tính liên kết. Đây là 3 yếu tố đóng vai trò quan trọng trong xây dựng phương pháp luận về mô hình phát triển hệ sinh thái đô thị biển đa chiều.
Nghiên cứu mô hình hệ sinh thái đô thị biển đa chiều cần được đặt vào bối cảnh một vùng ven biển hoặc một vùng biển, đảo cụ thể ở Việt Nam. Khu vực ven biển luôn được hiểu là bàn đạp để tiến ra biển, còn con người rất nhỏ bé khi hiện diện trong không gian biển rộng lớn, hệ thống quần đảo và đảo của Việt Nam có phân bố rộng từ Bắc vào Nam hình thành một thế trận kinh tế, quốc phòng trên biển rất hữu dụng.
Tuy nhiên, đến nay liên kết phát triển vùng giữa vùng ven biển, các hệ thống đảo hoặc cụm đảo và các vùng biển còn rất hạn chế. Do đó, việc đầu tiên cần nghiên cứu, xem xét là tái cơ cấu chuỗi đô thị ven biển, định hướng phát triển chuỗi đô thị đảo và đánh giá tiềm năng xây dựng đô thị trên biển đặt trong khuôn khổ tổ chức lại không gian kinh tế biển.
Có thể thấy, từ góc nhìn phát triển đô thị biển như trên, dường như chúng ta vẫn đang đứng ở ven biển, chưa phát triển đô thị đảo và đô thị trên biển. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, cần phải mạo hiểm tiến ra biển lớn bằng việc sớm hoàn thiện các chuỗi đô thị biển để góp phần khẳng định thế đứng của một quốc gia biển chứ không phải quốc gia ven biển.
Trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư về cuộc trao đổi này!
Thực hiện: Quang Tuyền
Thiết kế: Đức Thịnh