Động lực phát triển đô thị thế kỷ 21 từ văn hóa kênh rạch – sông nước Sài Gòn
(Tạp chí KTVN 224) – Quy hoạch 110ha dọc kênh Nhiêu Lộc ở Quận 3 (TPHCM) trở thành khu đô thị hiện đại với các cao ốc chọc trời, kết nối các tuyến Metro và đường trên cao chạy suốt qua trung tâm thành phố vượt sông Sài Gòn để kết nối với Thủ Thiêm. Kế hoạch chỉnh trang đô thị bắt đầu cho những cuộc cải tạo lớn trong nội đô lịch sử Sài Gòn đang được chính quyền soạn thảo, vừa hé mở trên báo chí.
Để trở thành một đô thị sông nước?
Sự hòa quyện giữa tự nhiên và đô thị vốn là bản chất của quy hoạch đô thị khi coi trọng sự thiêng liêng của nơi cư trú đồng nghĩa với gắn kết các hệ sinh thái đã nuôi dưỡng loài người từ những bộ lạc hoang dại thành các quốc gia hùng mạnh với dân số hiện nay tiến gần mốc 7 tỷ người. Điều đáng lưu ý là tất cả các thành phố lớn nhỏ đại diện cho các nền văn minh cổ đại đều gắn với các dòng sông mẹ (nền văn minh Lưỡng Hà với Babylone, Assyrie, Phenicie bên sông Euphrates và Tigris, Ai Cập với Thebes, Memphis bên sông Nile, sông Hằng với nền văn minh Ấn Độ, sông Hoàng Hà, Dương Tử với văn minh Trung Hoa). Chính vì vậy, mọi lý thuyết quy hoạch đô thị ban đầu đều thiết lập cho được sự cân bằng (nội tại) giữa yếu tố nhân tạo do con người với yếu tố tự nhiên mà khởi đầu là ứng xử với những hệ sinh thái nước: Dòng sông, biển, hồ, đầm phá, kênh rạch, vùng đất ngập nước, rừng ngập mặn.
Sài Gòn ba trăm năm trước, từ khởi thủy đã không phải là thành phố “bên sông” mà là dạng “đô thị nằm giữa lòng sông nước” với hệ thống kênh rạch chằng chịt. Do có những gò đất cao nằm giữa các sông rạch nên Sài Gòn là nơi tụ cư sớm nhất, lại nằm giữa đầu mối giao thông giữa Đông – Tây, Cao Miên và cao nguyên, mà hình thành đô thị một cách thuận lợi. Gò đất cao nhất, được người Việt khai phá đầu tiên, đặt tên là Tân Khai (đỉnh là khu vực Đài Truyền hình ngày nay), trải dài từ rạch Thị Nghè đến ngã ba sông Sài Gòn (tên chúa Nguyễn đặt là Tân Bình Giang) và rạch Bến Nghé (còn gọi là Kênh Tàu Hũ từ khi Chợ Lớn hình thành). Từ gò Tân Khai nhìn ra bốn hướng, đều gặp hàng hà sa số các ao hồ, kênh rạch, sông suối đan xen chằng chịt với rừng rẫy, gò đồi. Người Sài Gòn xưa đi lại phần lớn bằng ghe thuyền trên hai con kênh lớn Thị Nghè và Bến Nghé để lượn ra con sông mẹ êm đềm, tạo nên bản sắc văn hóa của vùng đất khoáng đạt này.
Các con rạch Thị Nghè, Bến Nghé, ngay từ thời chúa Nguyễn và sang thời Pháp, được xây sửa, mở rộng và nối dài thành kênh đào lớn để tiện cho giao thông thủy cho công cuộc đô thị hóa đầu tiên cuối thế kỷ XIX để Sài gòn trở thành một “Hòn ngọc Viễn Đông” trong mắt cả vùng Đông Nam Á.
Đầu thế kỷ XX, nhiều con kênh thông với sông Sài Gòn được san lấp để làm các đại lộ và đường phố rộng lớn (kênh Chợ Vải thành đại lộ Charner sau này là Nguyễn Huệ, rạch Cầu Sấu thành đại lộ La Somme, Hàm Nghi…). Trong khoảng 20 năm (1894 -1914), khu ao hồ sình lầy rộng lớn (đầm Boresse) được xây dựng thành khu phố chợ Bến Thành và nhà ga xe lửa trung tâm. Năm 1928, chợ Bình Tây ra đời cũng trên nền một xưởng đóng thuyền trên kênh Hàng Bàng, đánh dấu thời kỳ mở rộng Sài Gòn về hướng Tây Nam. Trong nhiều thập kỷ sau đó, một loạt ao hồ, rạch suối lớn nhỏ ở khắp Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định dần dần bị lấp làm đất ở, do bùng nổ dân cư di về thành phố trong chiến tranh và phát triển ồ ạt sau hòa bình.
Liên tục từ thế kỷ XVII đến XX, đã biến đổi Sài Gòn từ một địa danh không tên tuổi – trở thành một đô thị sông nước, một cảng thị, dẫn đầu về giao thương quốc gia và quốc tế. Logo đầu tiên của Sài Gòn có hình dòng sông và một chiếc thuyền lớn, ghi dòng chữ: Paulatim Crescam, nghĩa là Từ từ, tôi sẽ lớn. Và, Sài Gòn sông nước ấy đã lớn với chính bản sắc sông nước của mình, làm nên một di sản cảnh quan đô thị nước: đất ngập nước, rừng sác, kênh rạch, đầm hồ, xưởng tàu, bến cảng… với hằng hà sa số các hoạt động trên những con nước, là văn hóa cội nguồn của đô thị cho đến nay.
Lịch sử của những dòng kênh giữa lòng đô thị
Hai tuyến kênh lớn, chủ đạo giao thông thủy: Bến Nghé – Tàu Hũ (khoảng 22km) và Nhiêu Lộc – Thị Nghè (khoảng 10km) vẫn được giữ nguyên và bồi đắp mới từ đầu thế kỷ XX đến nay, qua bao thăng trầm đang trở thành niềm hy vọng vực dậy bản sắc sông nước của Sài Gòn, ngay tại trung tâm lịch sử thành phố. Chúng có thể vừa là cảnh quan lịch sử, vừa là giao thông thủy và là môi trường trong lành như lá phổi thành phố.
Kênh Bến Nghé – Tàu Hũ, nối với kênh Chợ Gạo (Tiền Giang) từng là “Con đường lúa gạo” từ miền Tây lên các nhà máy xay xát ở Chợ Lớn, sau đó đến bến cảng Khánh Hội để xuất đi khắp thế giới. Dọc theo con kênh này, người Pháp đã xây con đường hiện đại có tuyến xe trạm đầu tiên nối Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thập niên 1920 – 1930, ở khu vực Cầu Mống và Cầu Quay (cầu Trịnh Minh Thế cũ) hình thành rõ nét khu phố tài chính – ngân hàng mà biểu tượng là trụ sở quyền uy – Ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước). Các chợ Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối là đầu mối nông sản, nối với phố người Hoa (Calmette, Phó Đức Chính…), người Ấn (Tôn Thất Đạm, Pasteur…). Và rồi, cả Chợ Lớn cũ và Chợ Lớn mới xứng đáng là một “đặc khu di sản” bao gồm nhiều dấu tích Hoa, Việt, Khmer về cả thương mại, văn hóa, tôn giáo…
Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè chạy suốt từ Quận 1 khởi đầu phải kể đến khu vực nhà máy đóng tàu Ba Son (thủy xưởng của Nguyễn Ánh năm 1789) và Thảo Cầm Viên (sở ươm cây và sở thú đầu tiên ở Đông Dương năm 1864). Cũng là nơi quân Pháp và Tây Ban Nha đổ bộ xâm chiếm Sài Gòn tháng 2/1859. Chảy đến đất Quận 3, Quận Phú Nhuận, Quận Tân Bình, là những khu bình dân và nhiều nhà tạm đậm dấu ấn thời kỳ bùng nổ dân số trong chiến tranh.
Dòng kênh uốn khúc với rất nhiều cây cầu, đền chùa, nhà thờ, trường học… Sân bay Tân Sơn Nhất (ra đời từ 1930) kề cận với các khu ven kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, hiện vẫn còn nhiều di tích kiến trúc và văn hóa nổi tiếng như tu viện Saint Paul, Bảo tàng Lịch sử, chùa Ngọc Hoàng, Lăng Ông, Viện đại học Vạn Hạnh làm nên chuỗi các công trình văn hóa lịch sử chính của Sài Gòn. Khu vực bến Bình Đông – đại lộ Võ Văn Kiệt, hiện đang có quỹ đất gồm dãy nhà kho, nhà tập thể cũ có thể trở thành các dãy cao ốc thương mại (theo kỳ vọng của các chủ đầu tư bất động sản)? Hay nên theo thông lệ quốc tế, khi thành phố quá tải dân cư, quỹ đất này nên chuyển thành đất công cộng – văn hóa, giải trí, dải xanh đi bộ… cho cộng đồng.
Điều này có thể hóa giải cho thành phố còn nhiều khó khăn về chất lượng sống đô thị. Cần có các giải pháp đồng bộ để bản quy hoạch chỉnh trang kênh Nhiêu Lộc có thể dành nhiều lợi ích cho dân cư tại chỗ, hạn chế tối đa việc quỹ đất 110ha vô giá lại bị chất tải thêm các cao ốc chọc trời làm đầy túi chủ đầu tư tư nhân. Và dân chúng lại thêm quá tải hạ tầng, kẹt xe, tắc đường và ô nhiễm?
Đang dần hồi sinh và có cơ hội hồi sinh thật sự?
Mười năm trở lại đây, với rất nhiều công sức, cả hai tuyến kênh đã được phục hồi, mở rộng và làm sạch để trở thành hai tuyến trên bộ dưới thủy với dải cây xanh theo nó cùng nhiều tiện ích dân sinh.
Cả hai vẫn đang tiềm ẩn nhiều tài nguyên vô giá cho phát triển đô thị đợi được phát lộ trong kỷ nguyên của đô thị bản sắc và đô thị cảnh quan xanh thế kỷ XXI.
Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè với di sản Xí nghiệp đầu máy xe lửa Sài Gòn (tên thời Pháp là Depot xe lửa Chí Hòa), được coi là “đất sạch”, “đất vàng” với tổng diện tích lên đến gần 8ha trải dài cạnh bờ kênh với ba nhà xưởng vòm cong tuyệt đẹp, cùng khu vực cầu quay đầu máy và đoạn đường sắt kết nối với ga Hòa Hưng để làm bảo tàng di sản đường sắt cho du lịch dọc tuyến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè với các cuộc đua thuyền, bơi chải. Hai con đường đôi bờ kênh chạy dọc Nhiêu Lộc – Thị Nghè: Hoàng Sa, Trường Sa, chính là không gian sông nước lớn, đủ sức tái tạo lịch sử khai phá của một đô thị giữa sông nước và kết nối hoạt động dân cư vào dải xanh khổng lồ này. Chớ biến nó thành hai con đường nghẹt xe cộ, lam lũ theo cách xen cấy 110ha là cao ốc thương mại quanh nó. Đó là cách bức tử con kênh cảnh quan – cơ hội phát triển đô thị xanh duy nhất của Sài Gòn, là nông cạn về tầm nhìn tương lai của thành phố.
Cảnh quan đô thị lịch sử và điều tiết chống ngập trong tương lai
Để thúc đẩy khả năng thích ứng với lũ trong đô thị, nhiều mô hình “thích ứng với lũ” được đề xuất nhằm ngăn ngừa các thiệt hại khi xảy ra lũ lụt. Lý luận về khả năng “tự phục hồi của hệ thống nước trong đô thị” kế thừa và phát triển từ nền tảng “tự hồi phục” trong sinh thái học và xã hội – sinh thái học, đang thu hút được sự chú ý rộng rãi trong công tác quản lý lũ lụt (Walker, Holling et al. 2004). Khả năng tự phục hồi (hay thích ứng) với lũ không chỉ gắn với phục hồi sau thiên tai mà còn liên quan đến giảm thiểu nguy cơ trước thiên tai. Theo quan điểm của Liao (2012) thì khả năng thích ứng với lũ là khả năng chịu đựng lũ để tránh những rủi ro khi lũ đang diễn ra chứ hoàn toàn không phải ngăn chặn lũ, hoặc là khả năng tổ chức lại một cách nhanh chóng khi thiệt hại về vật chất, thiệt hại về kinh tế xã hội vẫn đang diễn ra. Hiện nay, với những thành phố đang phải đối mặt với những nguy cơ bất ngờ và khó dự đoán về lũ lụt, khái niệm “tự phục hồi” là rất quan trọng trong các kế hoạch ứng phó và giảm thiểu rủi ro. Trong đó, “tự phục hồi” hay còn gọi khả năng “thích ứng” với lũ cần được hiểu là khả năng chịu đựng lũ và khả năng tổ chức lại nhanh chóng.
Trở thành một đô thị thích ứng với lũ lụt ở Sài Gòn là xây dựng một cấu trúc tương tác tự nhiên giữa con người và thiên nhiên. Cụ thể là dải cảnh quan trung tâm Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Hai con kênh lớn giữa lòng thành phố nói trên cho phép lũ đi vào thành phố, trở thành các không gian chứa lũ, lợi dụng lũ để nuôi dưỡng hệ sinh thái đô thị. Bên cạnh đó, hệ sinh thái nước và môi trường nước, trong quy hoạch này phải tính đến các rủi ro từ lũ, triều cường và chủ động các phương án chịu lũ, nâng cao nhận thức và khả năng đối phó của cộng đồng và sẵn sàng chuyển sang cơ chế thích nghi với lũ của toàn bộ hệ sinh thái nước của Sài Gòn.
Lời kết
Như vậy, cùng với công tác quy hoạch, đầu tư và xây dựng hai bên kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè, cần có tầm nhìn khai thác 110ha bao quanh nó thành một cấu trúc không gian xanh, đậm bản sắc văn hóa – lịch sử sông nước của sài Gòn. Muốn vậy phải chú trọng vào chức năng cảnh quan, công cộng, đi bộ và kết nối các công trình lịch sử. Tránh việc chỉnh trang để chất tải nhà cao tầng, chất tải dân cư phá nát cơ hội phát triển thành phố xanh và cơ hội “thở sạch” của Sài Gòn. Mặt khác, hai con kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè; Bến Nghé – Tàu Hũ cần quyết định việc chuyển đổi sang mô hình thích ứng với lũ trong tương lai bởi tiềm năng sinh thái nước – nền tảng cơ bản để điều hòa mối quan hệ cộng sinh giữa con người và tự nhiên của toàn thành phố. Xây dựng mối quan hệ cộng sinh này có thể đưa đến một đô thị bền vững hơn, nơi thành phố sẽ an toàn hơn, nơi người dân có thể thân thiện hơn và được hưởng các lợi ích sinh thái chung để có thể hướng đến một tương lai tốt đẹp./.
PGS.TS Nguyễn Hồng Thục – Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Định Cư