Sam Jacob: Kiến trúc trong kỷ nguyên của những bản vẽ hậu-kỹ-thuật-số
Triển khai một khái niệm thiết kế bằng bút chì và giấy đã từng được coi là một hành động kiến trúc thiết yếu, nhưng chính văn hóa của những bản render điện tử của hai thập kỷ vừa qua đã gần như giết chết điều này. Gần như.
Trong các phim kinh dị, mỗi khi bạn nghĩ một cái gì đó đã chết thì có lẽ ngay lập tức chính nó sẽ quay trở lại tìm cách trả thù. Giống như những kịch bản điện ảnh zombie, điều này cũng đúng với việc thể hiện kiến trúc. Sau hai thập kỷ gần như mất tích, những bản vẽ kiến trúc đã quay trở lại để đánh dấu sự thay đổi của cả một thế hệ trong văn hóa kiến trúc.
Kể từ giữa thập kỷ 90 trở đi, khi mà máy tính thực sự bắt đầu thay thế những bảng vẽ, hành động vẽ trong kiến trúc ngày càng trở nên lỗ thời. Sức mạnh lớn dần của máy tính được sử dụng để tạo nên những viễn cảnh hào nhoáng cho những dự án sắp-được-xây-dựng, thông thường bao gồm bầu trời trong xanh, lá cây tươi tốt, những nhóm người đẹp đẽ và tư
’ khác, không thuộc về thị giác mà gắn liền với một hệ thống và tiêu chuẩn của ngành công nghiệp xây dựng.
Văn hóa điện tử, ít nhất cho đến lúc này, đã phân loại bản vẽ thành hoặc là kỹ-thuật hoặc là minh-họa, thành hoặc là thông-tin-xây-dựng hoặc là money-shot. Nhưng trong cả hai cách phân loại nói trên, vai trò của bản vẽ kiến trúc như một công cụ thiết-kế và giải-thích đã dần biến mất.
Điều trớ trêu của việc sở hữu sức mạnh điện tử khổng lồ trong một máy tính cơ bản nhất là hành-động-vẽ đã bị triệt tiêu bởi chính những công cụ mà chúng ta sử dụng. Những phần mềm vẽ và công cụ render phức tạp đã thu hẹp phạm vi của những bản vẽ kiến trúc ngay cả khi chúng cải thiện độ chính xác của bản vẽ một cách rõ rệt. Hãy nghĩ về cách mà những công cụ vẽ điện tử đóng khung không chỉ bản vẽ mà cả cách chúng ta vẽ. Chúng đặt chúng ta vào trong một tiền-ý-niệm (tiền-niệm) của không gian, một loạt các chương trình được định sẵn thay vì một khả năng thiết kế nhập nhàng có thể được hình thành. Trong không gian của công cụ điện tử nói trên, hành động vẽ bị gắn vào mặt phẳng Cartesian được đinh sẵn.
Render sử dụng ngôn ngữ của nhiếp ảnh – công cụ render đã tiên tiến tới mức ngay trong phần mềm chúng ta có thể giả lập điện tử chiếc máy ảnh sử dụng trong phối cảnh – và điều này mang lại cho chúng ta hình ảnh ‘thật’ của thế giới. Tuy nhiên, chính những ý niệm hiện thực đã-rồi này là nơi mà bản vẽ kiến trúc dường như thách thức.
Đối lập render với truyền thống lâu đời của bản vẽ kiến trúc nơi mà bản thân nó phải tự định hình / phát mình trong khuôn khổ không gian của tờ giấy vẽ. Chúng ta thấy được điều này trong các tác phẩm ‘kiến trúc giấy’ của những năm 70 và 80; Libeskind giai đoạn tiền-thương-mại-hóa, OMA giai đoạn một và hơn tất cả là Zaha Hadid giai đoạn tiền-kỹ-thuật-số ( và nhiều nhiều hơn nữa)
Trong giai đoạn này, bản vẽ kiến trúc gần như không thể tách biệt ra khỏi quy luật hình thành ý niệm của Kiến trúc. Những bản vẽ này không phải là ‘của Kiến trúc’ mà bản thân chúng chính ‘là Kiến Trúc’. Chúng tự nhìn nhận ra tính trọng yếu của không gian đồ họa và tự-nhận-thức (tự thức) được bản thân chúng. Những bàn vẽ Kiến trúc này tiếp nối huyết thống không chỉ dừng lại ở một nhóm kiến trúc sư của thế hệ trước (như Archigram, Superstudio, Archizoom …) mà cả những Ledoux, Gandy, Piranesi cho tới tận trung tâm/ điểm bắt đầu của Kiến Trúc.
Một trong những bài luận về lịch sử kiến trúc gần đây đã đề cập đến việc khi những ‘Kiến Trúc Sư giấy’ nói trên bắt đầu xây công trình, bản vẽ kiến trúc dần dần trở nên không quan trọng. Với sự trỗi dậy của công nghệ, bản vẽ kiến trúc trên cương vị của một hành động kiến trúc dần dần khô héo. Và cùng với việc đó cũng chính là sự biến mất của mối quan hệ của chúng ta với bản vẽ kiến trúc. Thay vào đó, bản vẽ kiến trúc đơn thuần trở thành một phương tiện thực dụng để trao đổi kiến trúc.
Thế nhưng, trong khoảng khắc mà bản vẽ kiến trúc tưởng như sẽ được chôn xác trong thùng rác của lịch sử, một thế hệ kiến trúc sư khác đã tìm được trong chính sự lỗi thời đó cơ hội cho một lối đi khác. Chắc chắn tại FAT, văn phòng mà tôi đồng chủ trì từ 1995 tới 2014, được biết tới bởi nhiều lập trường trái ngược nhau, chúng tôi tự cảm thấy được hấp dẫn với một tổ hợp khác biệt của những công cụ điện tử mà từ chúng dẫn tới việc gây dựng không gian ba chiều. Với chúng tôi, chính Illustrator và photoshop (hoặc cụ thể hơn là phần mềm đồ họa tiền nhiệm của illustrator, Macromedia Freehand) đã mang lại một định hướng khác, không chỉ trong việc vẽ mà còn cả việc tưởng tượng Kiến trúc. Với chúng tôi, chính khả năng tạo ra những siêu collage của Photoshop và sự ‘siêu phẳng’ của Illustrator đã hình thành nên một đàm-luận hình ảnh khác: kiểu đàm luận mà xem xét tất cả các hình ảnh trong không gian điện tử của nó và cùng một lúc đó hình thành một mệnh đề kiến trúc khác.
Photoshop, trong cách mà nó có thể mở và thao túng nội dung, gợi ra một mối quan hệ đặc biệt của những hình ảnh mà bản chất đã được biến đổi bởi văn hóa điện tử, xuất phát chủ yếu là từ Google images. Photoshop cho phép chúng ta can thiệp vào thế giới hình ảnh xung quanh, cắn xén thông tin và định hình đó để phục vụ cho một mục đích khác. Điều này đã từng được biết tới như collage, cắt nhiều hình ảnh và sắp xếp hình ảnh này với hình ảnh khác. Trong Photoshop, thậm chí, chúng ta có thể khám phá một hình ảnh ở mức độ pháp y/ vi mô, cắt, mask, làm trơn tư điểm kết nối giữa các hình ảnh. Và chính khả năng làm trơn tru đó đồng nghĩa với tổ hợp vô tận và đa sắc thái của các hình ảnh remix và mash up. Thay vì một hình ảnh hình thành nên từ những thành phần riêng lẻ, những thành phần đó trở thành một đồng nhất hình họa không thể chia cắt.
Không gian Illustrator, trong khi đó, gợi ra sự phẳng, việc chồng-lớp (layering) những mặt phẳng ấy và nhấn mạnh những đường bo đồ họa. Trong không gian điện tử này, từng mặt phẳng đồ họa được đặt chồng lên nhau tựa như những tấm phông đặt trên một sân khấu. Trong thực thế, chúng ta làm di chuyển uyển chuyển giữa những môi trường điện tử khác nhau bằng cách cắt, dán và sắp đặt để từ đó bản vẽ kiến trúc trở thành một collage không chỉ của nội dung mà còn của kỹ thuật xử lý.
Nhưng những bản vẽ điện tử phức tạp được phát sinh từ nhiều nguồn thành phần và bằng sự kết hợp của nhiều kỹ năng và phần mềm. Dựng mô hình, render, vẽ line và nhiều mảnh media được đem trộn vào nhau để trở thành một thực thể thống nhất; kéo màn hình lên xuống, zoom ra rồi vào, chúng ta đang sác tạo ra cả bản vẽ kiến trúc và không gain của bản vẽ kiến trúc trong một thế giới khác trong ánh glow phía bên kia của màn hình máy tính.
Sự quay trở lại của bản vẽ kiến trúc trong kỷ nguyên kỹ thuật số là sự phục hồi của truyền thống vẽ nhưng kỹ năng, công cụ và trung gian của nó về căn bản là hoàn toàn mới. Màn hình không chỉ khác một tờ giấy không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn khác về mặt khái niệm. Chồng một lớp giấy can lên trên một tấm bảng vẽ đồng nghĩa với việc sắp đặt một cái gì đó tách biệt ra khỏi thế giới bên ngoài – Dán băng dính ở 4 góc, cuộn giấy căng phẳng, bề mặt của nó sẵn sàng được việc khắc lại bởi mực từ cây bút Rapidograph hoặc cào bỏ bởi dao cạo mỗi khi có lỗi. Ngược lại, màn hình máy tính cận kề và gắn liền với thế giới. Đó là nơi mà cả thế giới – hoặc gần như cả thể giới – đến với chúng ta.
Ngay cả khi chúng ta triển khai bản vẽ kiến trúc điện tử, chúng ta tự đặt mình vào vị trí của khán giả. Lúc chúng ta vẽ cũng là lúc chúng ta chứng kiến bản vẽ hình thành. Chúng ta trở thành người thụ hưởng bản vẽ cũng như người tạo ra chúng.Không gian của bản vẽ cũng gần như không bao giờ chống trải mà nó gắn liền với dòng chảy liên kết, một mặt phẳng có thể chảy hoặc bùng nổ, có thể trở thành tái tổ hợp và lộn xộn, nơi mà ý nghĩa cũng như tương tác của hình ảnh luôn luôn chuyển biến.
Có lẽ, sự gần gũi của bản vẽ điện tử với muôn vàn những tham khảo, download và dòng chảy kỹ thuật số cũng là lý do vì sao, trong sự tái sinh của bản vẽ kiến trúc gần đây, chúng ta không chỉ thấy được thành phần hình ảnh mà còn thấy được kết cấu của những bản vẽ kiến trúc đó. Ví dụ như những bản vẽ của Point Supreme hay Fala Atelier gợi nên sự tương đồng với hội họa. Hay như những tấm collage của Office KGDVS ,liên tục hoán đổi sự phẳng và chiều sâu, gợi cho chúng ta đến kết cấu của Ruscha hay Hockney. Hay như những phác họa của Dogma gợi cho chúng ta đến sự chính xác của những nhà duy lý.
Thay vì vươn tới hiện-thực-nhiếp-ảnh-giả-tạo, Sự sùng bái mới của những bản vẽ kiến trúc khám phá và lợi dụng sự nhân tạo của chính nó, làm cho chính những người thị giả chúng ta nhận thức được chúng ta đang nhìn vào một không gian tượng trưng viễn tưởng. Đây chính là sự đối lập với những bản render điện tử mà mục đích duy nhất của chúng là làm cho một thứ tưởng tưởng dường như là ‘thật’
Tiềm năng của cách biểu hiện tượng trưng hậu-kỹ-thuật-số là một trong những nghiên cứu chính trong những studio mà tôi đã dạy tại Architectural Association ở London, trường Kiến trúc Yale và Đại học Illinois ở Chicago. Sinh viên của tôi và tôi đang làm việc với với những tham khảo trực tiếp từ những bản vẽ kiến trúc kinh điển chọn lọc từ kho tàng lịch sử rộng lớn. CHúng tôi sử dụng những tham khảo từ Piranesi, Boulee, Mies, Stirling, Hejduk, Hadid và nhiều kts khác, một người thể hiện một quan điểm khác biệt trong không gian vẽ cũng như gợi ra một thể loại kỹ năng và tượng trưng. Mục tiêu của chúng tôi là xem xét, phá vỡ và sắp xếp lại những công cụ điện tử. Trong khi triển khai điều này, chúng tôi khám phá ra những cách mới trong việc lai drawing projection và không gian giấy. Cùng lúc đó, kỹ năng điện tử cho phép chúng ta tạo ra những sản phẩm mà khó có thể được đánh giá là điện tử hay vẽ tay, render hay khắc họa. Chính những cơ hội hậu-kỳ của kỹ thuật số dẫn đầu cho một cuộc nghiên cứu nghiêm túc cho bản vẽ kiến trúc.
Mục đích của chúng tôi là phát triển cách tiếp cận hậu-kỹ-thuật-số, từ đó định vị lại ý nghĩa cũng như chức vị của bản vẽ trong kiến trúc – định hình lại việc bản vẽ kiến trúc không chỉ là của sổ nhìn ra thế giới mà còn là công cụ để gây dựng nên thế giới đó, và đòi lại chỗ đứng của bản vẽ kiến trúc như địa điểm nới mà ý tường kiến trúc được xây dựng. Sự tái-sinh-điện-tử của bản vẽ kiến trúc đã tạo nên một tập hợp ‘Frankenstein’, bản vẽ nơi mà sự giả lập và lai tạp của nó đi vượt ra khỏi giới hạn trung gian và kỹ năng để đặt câu hỏi với chính quyền tác giả và không gian. Nói một cách khác, trong trạng thái không-chết, hậu-vật-chất và điện tử, bản vẽ kiến trúc đã trở nên giàu có hơn, mạnh mẽ hơn và khiêu khích hơn bao giờ hết.
Theo Kiến việt