Thiết kế đô thị & Khung pháp lý quản lý hè phố hiện nay
(Tạp chí Kiến trúc Việt Nam) – Thiết kế đô thị (ở góc độ lập thiết kế đô thị cho các tuyến đường/phố đã hình thành từ trước) không chỉ thiết kế hình ảnh mà còn định hướng cho bản thiết kế hoạt động, là cơ sở thiết kế cho quản lý cho hè phố. Vai trò này cần được thừa nhận và coi trọng để đô thị Việt Nam đến gần hơn tới trật tự – an toàn – văn minh.
Hè phố là một bộ phận của giao thông đường bộ, do vậy việc xác định cấp đường và nhiệm vụ lưu thông của con đường ảnh hưởng quan trọng nhất tới việc xác định chức năng của vỉa hè thuộc tuyến phố. Do đó, xác định rõ cấp của tuyến đường và thống nhất vai trò giao thông là công tác đầu tiên của việc thực hiện thiết kế đô thị.
Phân cấp đường phố thời Pháp thuộc
Vào thời Pháp thuộc, ở các đô thị của Việt Nam việc phân cấp tuyến đường được thể hiện khá rõ qua bản đồ bằng những tên gọi:
– Nhóm đường lớn cấp một (1): Boulevard – đại lộ có hàng cây; (2) Avenue – đường dẫn hướng tới một công trình. Ví dụ: Avenue Paul Bert (phố Tràng Tiền hiện nay), Avenue Gambetta (phố Trần Hưng Đạo hiện nay).
– Nhóm đường cấp hai (3): Rue – phố. Ví dụ: Rue Riquier (phố Nguyễn Du hiện nay).
– Nhóm đường cấp ba (4): Ruelle – ngõ; Impassive – ngõ cụt.
Theo đó, những con đường cấp một (1) và (2) với lưu lượng giao thông cao, thường rộng và được trồng cây, hợp thành mạng lưới giao thông huyết mạch và đảm bảo sự lưu thông giữa các khu phố. Nhờ khả năng dễ phân biệt và dễ định hướng của mình, các tuyến đường này có tác dụng cuốn hút thương mại và những địa điểm có nhiều người lui tới. Những con đường cấp hai (3) có chức năng phân tán các dòng giao thông nội khu phố và đảm nhiệm các mối liên hệ cục bộ. Cuối cùng là những con đường cấp ba (4) đảm bảo việc giao thông từ nhà này sang nhà khác.
Với việc phân cấp đường phố thời Pháp thuộc tại Hà Nội theo nguyên lý trên, cộng với sự ổn định về quy hoạch và xây dựng tại các khu phố này đã tạo nên một khu phố cũ Hà Nội khá yên bình. Tuy nhiên, trên thực tiễn, vấn đề đặt ra là: Nếu các tuyến đường đô thị hiện nay được hoạch định rõ và thực hiện theo đúng chức năng của nó thì công tác giữ gìn trật tự hay quản lý hè phố cũng sẽ trở nên đơn giản. Vậy, trước thực trạng đường/phố hiện nay, cần thiết nghiên cứu thiết lập một khung pháp lý quản lý hè phố sao cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Hiện tượng “đồng hóa” đường và phố
Hiện nay, việc phân cấp tuyến đường do các bản Quy hoạch – hoạch định và được xây dựng theo tiêu chuẩn/quy chuẩn thiết kế đường và vỉa hè theo từng cấp độ. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta chưa có sự thống nhất ở cách đặt tên và hoạt động được phép diễn ra trên tuyến đường/ phố đảm bảo theo đúng chức năng. Nhiều người dân thắc mắc thế nào là đường hay thế nào là phố? Ví dụ: Đường Văn Cao (Hà Nội) dài khoảng 540m có biển tên đoạn giao cắt với phố Đội Cấn được ghi là “đường”, nhưng đến đoạn giao cắt với phố Thụy Khuê lại ghi là “phố”. Trường hợp tương tự, với đường/phố Yên Phụ, đường/phố Tô Ngọc Vân… Trong khi đó, quy chế đặt tên, đổi tên đường/phố và công trình công cộng (được ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ – CP, ngày 11/7/2005 của Chính phủ) cũng đã phân biệt rõ đường, phố, ngõ, ngách (đối với miền Bắc) hay hẻm, kiệt (với miền Nam).
Vậy, làm thế nào để phân biệt đường hay phố? Cơ sở làm căn cứ chủ yếu là dựa vào quy mô, vị trí, tính chất của từng trường hợp. Cụ thế, đặt là đường (đối với những đường có quy mô lớn về độ dài, chiều rộng, nằm trên các tuyến vành đai, đường liên tỉnh, đường trục chính trên địa bàn thành phố). Đặt là phố (đối với những đường có quy mô nhỏ và hai bên có những công trình kiến trúc liên tiếp (nhà ở, cửa hàng, cửa hiệu, trụ sở cơ quan…).
Tuy nhiên, qua thời gian sử dụng, với đặc thù của nền kinh tế – thương mại còn nhỏ lẻ, tình trạng “phố hóa” các con đường ở Hà Nội (như đường Trường Chinh, đường Láng, đường Nguyễn Trãi…) diễn ra hầu khắp ở mọi đô thị một cách tự nhiên. Khi đó, các hoạt động trên các con đường này tấp nập dịch vụ, thương mại… mang tính chất là phố hơn là đường, nhưng tên gọi là “đường” vẫn được giữ nguyên.
Việc hình thành chức năng mới (hay “phố hóa” các con đường) làm ảnh hưởng trầm trọng đến giao thông và rối loạn trong công tác quản lý. Do đó, việc xác định rõ cấp của tuyến đường và thống nhất vai trò giao thông, chức năng cụ thể của đường/phố là công tác đầu tiên của việc thực hiện thiết kế đô thị cũng như trong khung pháp lý quản lý hè phố hiện nay.
Xác định chức năng hè phố và phân cấp ưu tiên để quản lý
Hè phố với 4 chức năng cơ bản: Làm lối đi riêng cho người đi bộ; Chứa đựng hạ tầng đô thị, bao gồm hạ tầng ngầm như: cấp thoát nước, điện, cáp quang…, kể cả kết nối hạ tầng với các ngôi nhà dọc phố và các tiện ích đô thị như cột chiếu sáng hè đường, cây xanh, đèn giao thông, biển báo…; Lối ra vào các công trình dọc phố (nhà ở, cửa hàng, văn phòng,…); Không gian công cộng đô thị.
Ngoài ra, tại một số nơi, hè phố còn có thêm một chức năng phụ là làm không gian hoạt động của nền kinh tế phi chính thức. Gọi là “phụ” vì với vai trò là nơi diễn ra hoạt động của nền kinh tế phi-chính-thức, bao gồm các hàng quán chỉ hoạt động trên vỉa hè không thuộc hệ quản lý của các cơ quan kinh tế, cơ quan hành chính (không phải cấp phép) và các cửa hàng dịch vụ ẩm thực sử dụng vỉa hè để mở rộng không gian kinh doanh. Hoạt động này không diễn ra toàn khắp trên tất cả các tuyến phố nhưng ở Việt Nam, do thói quen và văn hóa của người dân, chức năng “phụ” này lại là điểm nổi bật nhất kèm theo đó nhiều bất cập, ảnh hưởng đến 4 chức năng “chính” của hè phố.
Đơn cử như chợ dân sinh – hoạt động sôi nổi trên vỉa hè cũng bởi dân chúng sử dụng xe máy và cho việc mua bán diễn ra nhanh, gọn với những nhu cầu ít nhưng ở những nước có điều kiện kinh tế (như Đài Loan) tình trạng này vẫn diễn ra.
Xác định chức năng và phân cấp ưu tiên đường/phố là quá trình phân tích hệ lụy từ các lựa chọn, tránh gây cản trở, mâu thuẫn giữa các chức năng với nhau.
Ví dụ: Với các tuyến đường cũ, được xây dựng khi điều kiện phương tiện cơ giới còn ít, mật độ dân cư thấp hơn, hoạt động trên hè phố chưa đa dạng, vỉa hè hẹp (có nơi chỉ 0,5m) chỉ đảm bảo chức năng đi bộ và không có khả năng cơi nới dù có nhu cầu sử dụng thì ngay từ giai đoạn quy hoạch hay xây dựng dự án hạ tầng đô thị, cần bố trí các điểm tập trung như bãi đỗ xe, chợ…
Thiết kế đô thị – Cơ sở cho quản lý hè phố
Hiện nay, tuyến đường phố đã trở thành đối tượng được lập thiết kế đô thị riêng (theo Thông tư 06/2013/TT-BXD hướng dẫn về nội dung thiết kế đô thị do Bộ Xây dựng ban hành ngày 13/5/2013). Cụ thể hơn, trong văn bản “Thiết kế mẫu hè đường đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội” của Sở Xây dựng (ban hành theo Quyết định số 4340/QĐ-UBND ngày 20/08/2014 của UBND thành phố Hà Nội) bao gồm phần Hướng dẫn sử dụng và phần Bản vẽ mẫu để các tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác đầu tư xây dựng hoặc cải tạo sửa chữa hè đường đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội nghiên cứu, áp dụng khi lập thiết kế xây dựng, cải tạo hè đường đô thị.
Tuy chưa đưa vào quy định bắt buộc nhưng trong giai đoạn khảo sát hiện trạng, cần xác định rõ chức năng, tính chất, đặc điểm hoạt động trên vỉa hè của tuyến phố, từ đó lập nhiệm vụ thiết kế phù hợp. Một số câu hỏi có thể đặt ra khi tư duy cho thiết kế đô thị hè phố như:
– Giải pháp thiết kế hè phố gắn với các nút giao thông như ngã 3, ngã 4 hay các quảng trường lớn?
Những phố chỉ có một bên có hoạt động hè phố, bên còn lại là hàng rào hoặc bức tường của cơ quan, là hồ nước, bờ sông… thì phải giải quyết những vấn đề phát sinh ra sao?
Hè phố ở các tuyến phố đi bộ và các trục giao thông chính khác biệt về chức năng thì thiết kế cũng cần phải làm rõ sự khác biệt đó như thế nào? …
Có thể thấy, từ việc nghiên cứu chức năng của hè phố tới lời giải của thiết kế đô thị rất đa dạng, đôi khi còn “độc nhất vô nhị” – Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội của chuyên ngành mới được thiết lập ở Việt Nam.
Một số giải pháp thiết kế đô thị cho hè phố sau đây được đề xuất dựa trên nhận định về chức năng của hè phố:
– Khi hè phố thực hiện chức năng lối ra vào thì nẩy sinh vấn đề chỗ đỗ các loại xe đạp, xe máy trên hè phố. Nếu trong phạm vi khoảng 5 phút đi bộ gần đó không có chỗ gửi xe thì việc cho phép xe đỗ trên hè phố là cần thiết, vấn đề là phải bố trí việc đỗ tạm đó như thế nào cho có trật tự, không cản trở việc đi lại của người đi bộ (tuy nhiên cũng phải xét đến bề rộng của vỉa hè ở hiện trạng). Một kinh nghiệm của các thành phố ở Đài Loan có thể tham khảo tổ chức cách mép đường một đoạn bằng chiều dài của xe người ta đặt một thanh sắt dọc phố cách mặt đất khoảng 30cm để ngăn xe không được vào sâu hơn, mỗi xe có một ô đỗ riêng.
Để đảm bảo chức năng là không gian công cộng, dọc phố cần bố trí nhà vệ sinh công cộng ở nơi thích hợp và đặt các thùng đựng rác. Ở những nơi thuận tiện có thể đặt thêm ghế cho người già hay trẻ nhỏ nghỉ chân. Để tăng tính hấp dẫn cho hè phố, ở những nơi đông khách du lịch có thể bố trí một số công trình nghệ thuật đường phố như giải trí ghép gốm, điêu khắc…
Để đảm bảo chức năng là không gian hoạt động của nền kinh tế phi chính thức, các nhà dọc phố cần có mái hiên để che mưa nắng cho người đi bộ và thuận lợi cho kinh doanh của các cửa hàng khi thời tiết xấu trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. Việc thống nhất độ cao và chiều rộng mái hiên để đảm bảo mỹ quan đô thị. Để khách hàng được tiếp xúc với môi trường đường phố, ở một số nước cho phép cửa hàng cà phê, giải khát được mở rộng không gian phục vụ ra cả một phần vỉa hè.
Như vậy, nguyên lý thiết kế đô thị cho hè phố cần phân biệt theo quy mô, chức năng, đặc điểm của từng tuyến. Nếu thiết kế đô thị thoát ly khỏi thực tiễn, bỏ qua vấn đề sử dụng như hoạt động kinh tế, hoạt động dân sinh, luồng giao thông… khiến thiết kế khi đưa vào ứng dụng gặp nhiều bất cập.
Các Kiến trúc sư quan tâm đến từng công trình, còn thiết kế đô thị quan tâm đến một quần thể công trình và có thể được thực hiện bởi nhiều tác giả nhưng phải đảm bảo tạo nên sự hài hòa, tránh gây ra mâu thuẫn. Đặc biệt, thiết kế đô thị không chỉ thiết kế hình ảnh mà còn định hướng cho bản thiết kế hoạt động, thiết kế quản lý cho hè phố. Vai trò này cần được thừa nhận và coi trọng để đô thị Việt Nam đến gần hơn tới trật tự – an toàn – văn minh./.
Ths.KTS Phan Thị Vân Anh
TẠP CHÍ KIẾN TRÚC VIỆT NAM SỐ 200 – 2016