15/12/2017

Chiến lược phát triển ĐBSCL & đòn bẩy của quy hoạch tích hợp

(Tạp chí Kiến trúc Việt Nam) – Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là khu vực quan trọng, đóng góp giá trị lớn cho phát triển kinh tế cả nước nhưng lại đang đứng trước các thách thức về phát triển bền vững của biến đổi khí hậu (BĐKH). Hội nghị Chuyển đổi mô hình phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH với tầm nhìn tới năm 2100 diễn ra ngày 26-27/9/2017 tại Cần Thơ đã chỉ ra các thách thức rất lớn trong công tác quản lý và phát triển đô thị ứng phó với BĐKH, trong đó quy hoạch phát triển đô thị là một nội dung quan trọng cần có những đổi mới tiên phong, đi trước, làm cơ sở và tiền đề cho các bước thực hiện tiếp theo.

Không gian sinh kế trên sông của cư dân vùng ĐBSCL

Không gian sinh kế trên sông của cư dân vùng ĐBSCL

Vùng ĐBSCL trước các thách thức của BĐKH

Vùng ĐBSCL bao gồm TP Cần Thơ ( đô thị trung tâm) và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. ĐBSCL có diện tích 40.604,7km2, dân số khoảng 18 triệu người, toàn khu vực đóng góp 18% GDP toàn quốc (sản xuất 90% tổng lượng gạo xuất khẩu, 60% xuất khẩu thủy sản Việt Nam, 70% sản lượng trái cây cả nước).

Trong điều kiện BĐKH gia tăng, ĐBSCL sẽ là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Nhiệt độ tăng và mực nước biển dâng 100cm vào cuối thế kỷ 21 sẽ ảnh hướng 38,9% diện tích đất của ĐBSCL. Theo nghiên cứu của ĐH Utrecht (Hà Lan), chỉ trong 25 năm (1991-2016), vùng ĐBSCL đã lún trung bình 18cm, có nơi tới 53cm. Cùng lúc, hiện tượng nóng lên toàn cầu làm nước biển dâng 1-3mm/năm và sông, rạch thì ô nhiễm đến mức không thể dùng cho các nhu cầu sinh hoạt bình thường. Trong 7 năm (2009 – 2016), lượng phù sa bồi đắp vùng châu thổ giảm gần 1 nửa, hàng trăm km bờ biển xói lở khiến nơi đây cứ 2 ngày lại mất đi một phần diện tích tương đương 3 sân bóng đá…

Xâm ngập mặn ở ĐBSCL

Xâm ngập mặn ở ĐBSCL

Các tỉnh bị ảnh hưởng nhiều nhất là Hậu Giang 82,62%, Kiên Giang 76,9%. Hiện nay, vùng ĐBSCL đang phải đối diện với nhiều thách thức do tác động của BĐKH với 4 vấn đề chính lớn: Thứ nhất, BĐKH nước biển dâng. Thứ hai, thách thức từ khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn sông Mê Kông, do các hoạt động xây dựng của con người làm chuyển đổi dòng chảy nước sông. Thứ ba, thách thức từ các hoạt động kinh tế cường độ cao, gây sụt lún, sạt lở ngày càng nghiêm trọng, môi
trường suy thoái.Thứ tư, ĐBSCL hiện là vùng trũng về đào tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, nhân lực chất lượng cao có xu hướng dịch chuyển khỏi vùng.

Về mặt quản lý nhà nước, vùng ĐBSCL đối mặt với những thách thức mang tinh sống còn do mô hình phát triển không còn phù hợp. Chinh sách quy hoạch, phân vùng, quản lý thiếu gắn kết, đồng bộ do tác động của BĐKH dần dẫn đến sự phát triển thiếu bền vững, sinh kế của người dân trở nên bấp bênh.

Sạt lở nhà ven sông trước tác động của BĐKH

Sạt lở nhà ven sông trước tác động của BĐKH

Hạn hán tại vùng ĐBSCL trước tác động của BĐKH

Hạn hán tại vùng ĐBSCL trước tác động của BĐKH

Chiến lược ĐBSCL và những điểm mấu chốt gì?

Tại Hội nghị Chuyển đổi mô hình phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH với tầm nhìn tới năm 2100 diễn ra ngày 26-27/9/2017 tại Cần Thơ, một số các định hướng chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển ĐBSCL đã được nghiên cứu bàn luận. Hội nghị được đánh giá là chưa từng có từ trước tới nay khi đích thân Thủ tướng cùng 2 Phó Thủ tướng chủ trì, 700 đại biểu là lãnh đạo bộ, ngành, địa phương… cùng các nhà khoa học, chuyên gia, đối tác quốc tế tham dự và thảo luận các hướng đề xuất mô hình chuyển đổi mới để phát triển ĐBSCL, nếu thành công sẽ là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu triển khai ở các vùng khác trên cả nước.

Về tầm nhìn về mục tiêu phát triển của vùng ĐBSCL, Thủ tướng đã nhấn mạnh các mục tiêu phát triển chính của vùng ĐBSCL đến năm 2050 bao gồm: Phát triển ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, thu nhập bình quân đầu người gần 10.000 USD. Các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng được bảo tồn trong điều kiện BĐKH; Chuyển từ thứ tự ưu tiên lúa – thuỷ sản – cây trồng sang thuỷ sản – cây trồng – lúa. Dứt khoát giảm diện tích trồng lúa. Trong quá trình chọn lựa vật nuôi, cây trồng phải có doanh nghiệp tham gia từ đầu.

Về lĩnh vực tài chính, cần nghiên cứu thành lập quỹ phát triển ĐBSCL với nhiều nguồn lực, đặc biệt là cấp ngân sách. Từ nay đến năm 2020, giải ngân có hiệu quả ít nhất là 1 tỷ USD cho những việc cụ thể như hệ thống cống điều tiết, cống sông Cái Lớn, sông Cái Bé của tỉnh Kiên Giang để ngăn mặn; cống Trà Sư, Tha La của tỉnh An Giang để điều tiết lũ. Khuyến khích bằng cơ chế để khu vực tư nhân tham gia phát triển bền vững ĐBSCL. Chủ động hợp tác với các nước trên sông Mêkông để tranh thủ sự hỗ trợ của đối tác phát triển, mở rộng thị trường hàng hoá, mở ra không gian hợp tác với các quốc gia.

Theo Thủ tướng Chính phủ, có 3 quan điểm lớn về phát triển vùng là: Kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng trên cơ sở cuộc sống ổn định, khá giả của người dân; Gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống; Tư duy phát triển thay đổi sang tư duy kinh tế nông nghiệp từ số lượng sang chất lượng gắn với chuỗi hoá trị, chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ. Lương thực không phải là chống đói mà lương thực ngày nay phải là chữa bệnh, phòng bệnh; Đặc biệt, phải tôn trọng tự nhiên, thuận thiên là chính, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên. Cần sống chung với lũ, sống chung với mặn.

Các nhóm giải pháp được nêu ra và đề xuất thực hiện trong thời gian tới để phát triển bền vững ĐBSCL trong điều kiện BĐKH bao gồm:

– Đổi mới tư duy va cách tiếp cận theo hướng bền vững và thích ứng với BĐKH. Những tác động của BĐKH tạo ra các thách thức vô cùng to lớn, đe doạ quá trình phát triển của vùng, sinh kế và đời sống người dân trong vùng nói riêng và cả nước nói chung; qua đó tác động tới khu vực và quốc tế, đặc biệt là an ninh lương thực. Do đó, định hình chuyển đổi mô hình phát triển ĐBSCL theo hướng bền vững, thích ứng với BĐKH có ý nghĩa rất quan trọng. Định hình chiến lược phát triển bền vững và huy động, điều phối nguồn lực cho phát triển ĐBSCL phải có sự đổi mới trong tư duy và cách tiếp cận theo hướng mỏ, hiện đại. Lấy tri thức khoa học công nghệ làm nền tảng, kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế là sức mạnh trong các giải pháp ứng phó với BĐKH. Các giải pháp cần có tính đột phá, khả thi cao.

– Đổi mới trong cõng ác quy hoạch ĐBSCL theo hướng quy hoạch tích hợp. ĐBSCL hiện có rất nhiều quy hoạch, cả cấp vùng và cấp địa phương, về sản xuất, xây dựng, sử dụng đất, chống ngập… Số lượng quy hoạch cho ĐBSCL được Bộ Kế hoạch & Đầu tư cung cấp là 2.500, ỏ cấp vùng cũng có tới 22 bản. Có quá nhiều quy hoạch nên chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu liên kết, cản trỏ sự phát triển. Nhiều bản quy hoạch chủ quan, duy ý chí, nhiều bản quy hoạch xung đột, nặng về đề ra mục tiêu, chỉ tiêu, ít quan tâm đến tổ chức, không gian. Điểm yếu của các quy hoạch này là không có sự gắn kết đồng bộ với nhau, không phát huy được hiệu quả, thậm chí dẫn đến những hậu quả ngoài tính toán, cản trỏ sự phát triển của ĐBSCL. Cần có hướng nghiên cứu đổi mới công tác quy hoạch vùng ĐBSCL theo hướng quy hoạch tích hợp.

– Xác định rõ thái độứng phó với BĐKH theo hướng thích ứng cao, không can thiệp thô bạo vào thiên nhiên. Việc chế ngự thiên nhiên có chi phí cao hơn rất nhiều so với việc phát triển thích ứng với thiên nhiên và BĐKH. Cần có các giải pháp ứng dụng giảm thiểu tác động của thiên tai và BĐKH từ các giải pháp vật liệu, công nghệ tiên tiến trong xây dựng, xử lý rác thải, phát triển đô thị. Phải kiểm soát đất đai chặt chẽ, không thể dễ dàng chuyển đổi từ đất rừng ngập mặn sang nuôi tôm. để tạo các vùng an toàn, vùng dự trữ sinh quyển thích ứng cao với BĐKH. Để phát triển bền vững cho vùng, phải xác định rõ kinh tế nông nghiệp là mũi nhọn, trong đó mũi nhọn của nông nghiệp là thủy sản, chứ đừng nên lan man.

– Đẩy mạnh liên kết trong quản ý va phát triển khu vực ĐBSCL, trong đó có sự liên kết ngang, liên kết dọc và một cơ chế cho sự liên kết nội vùng. Cụ thể, liên kết ngang tạo ra sự kết nối giữa các tỉnh thành trong khu vực, địa bàn, lãnh thổ. Liên kết dọc được thực hiện chủ yếu theo lĩnh vực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo hệ thống từ trung ương đến địa phương. Để thực hiện có hiệu quả khâu liên kết trong khu vực thì vấn đề đặt ra là phải có một nhạc trưỏng cũng như xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp.

– Hướng tới việc chuyển đổi sản xuát trong liên kết vùng vì xăm nhập mặn va ĩỉĐKH. Đề xuất chuyển đổi vùng ĐBSCL thành ba vùng, đó là vùng trên, vùng giữa và vùng ven biển bán đảo Cà Mau. Ngay trong từng vùng sản xuất cũng cần quy hoạch thành các tiểu vùng có đặc điểm sinh thái khác nhau. “Trong vùng ven biển thì có vùng sản xuất luân canh lúa tôm, sản xuất xen canh tôm rừng…”

Hành động nào cho ĐBSCL thích ứng với BĐKH

Đổi mới mô hình quản lý vùng ĐBSCL theo hướng kết nối

Là một khu vực trọng yếu, ĐBSCL hứa hẹn mang lại những cơ hội để giúp Việt Nam phát triển. Để phát triển ĐBSCL trong bối cảnh BĐKH, cần có sự thay đổi cơ bản về mô hình – từ cách nhìn bó hẹp trong phạm vi đồng ruộng, địa phương sang tầm nhìn bao quát vượt qua ranh giới địa lý. Để thúc đẩy phát triển, thích ứng với BĐKH và đầu tư hạ tầng cho khu vực, cần áp dụng cách tiếp cận “Chính phủ quy về một mối”. Nghĩa là cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương.

Xu hướng tăng trưỏng của Việt Nam tại vùng ĐBSCL sẽ cần áp dụng 4 nguyên tắc. Thứ nhất, phải tính đến các nguy cơ khó xác định, cụ thể: ảnh hưỏng ỏ thượng nguồn và hạ nguồn, ảnh hưỏng của BĐKH.Điều này không chỉ là cần thiết nữa, mà là một đòi hỏi bắt buộc. Thứ hai, tăng cường hiệu quả, hiệu suất sử dụng các nguồn tài chính. Thứ ba, coi trọng liên kết vùng trong việc sử dụng nước, kết nối hạ tầng, tránh phương án đầu tư của địa phương này có thể ảnh hưỏng tiêu cực ngoài dự tính với tiềm năng phát triển của địa phương khác. Thứ tư, tận dụng tốt các lợi thế so sánh.

Để tạo chuyển biến giúp ĐBSCL có thể phát triển thích ứng với BĐKH và phát triển bền vững, đòi hỏi phải chú trọng 4 nội dung: thể chế, thông tin, đầu tư, thực hiện. Trong đó thể chế là yếu tố quan trọng. Việt Nam cân nhắc chuyển đổi mô hình quản lý hiện nay sang cơ chế hiệu quả hơn, có nhiệm vụ quyền hạn, kinh phí đầy đủ để nắm vai trò lãnh đạo quá trình phát triển của ĐBSCL, như Mô hình Văn phòng ủy viên quản lý đồng bằng Hà Lan, Mô hình Cục quản lý vùng thung lũng Tennessee (Mỹ), bằng các hoạt động của mình đã chuyển hóa được một trong những khu vực lạc hậu thành một mô hình phát triển lồng ghép.

Vấn đề đầu tư và nguồn vốn, do nhu cầu lớn nên Việt Nam cân nhắc lập Quỹ phát triển ĐBSCL, với cơ chế quản lý hoạt động rõ ràng, để huy động những nguồn vốn cấp bách, dành riêng cho từng mục đích. Quỹ có thể huy động vốn cho cơ sỏ hạ tầng dành riêng cho các dự án liên địa phương, với ngân sách ưu đãi của Trung ương cấp bổ sung. Bên cạnh đó là huy động vốn tư nhân.ĐBSCL đang trong giai đoạn đi tới điểm phát triển. Phương án đầu tư cơ sỏ hạ tầng, đầu tư sinh kế thực hiện hôm nay có thể để lại những ảnh hướng không thể đảo ngược về lâu dài.

Cần tăng cường các cơ chế kết nối khu vực ỏ cấp độ quốc gia, tỉnh thành, địa phương. Sự phát triển của kinh tế khu vực, thích nghi với BĐKH và phát triển cơ sỏ hạ tầng toàn khu vực đòi hỏi cách tiếp cận “Chính phủ như một khối thống nhất”nghĩa là cần sự hợp tác giữa các tỉnh ĐBSCL, Chính phủ trung ương và khu vực tư nhân để có thể sử dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài chính và tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Để làm điều này, Chính phủ cần tạo cơ chế cho phép đầu tư liên tỉnh và liên ngành ỏ khắp khu vực ĐBSCL. Hiện có mô hình kết nối khu vực có hiệu quả là Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Nên thực hiện những cú đấm mạnh mẽ và kết nối tổng thể: kết hợp với các kế hoạch tổng thể từng khu vực, kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội cấp tỉnh thành. Hoạch định và phối hợp hành động cần đi song song để tạo hiệu quả.Đầu tư và nguồn vốn là những yếu tố chính cần thiết. Bên cạnh, Quỹ phát triển ĐBSCL đã được đề cập ỏ trên đề xuất thêm cơ chế giảm nghèo, hỗ trợ các cộng đồng yếu thế, trong đó sẽ nghiên cứu các mô hình bảo trợ xã hội, chương trình bảo hiểm. Để phát huy sức mạnh liên vùng cần kết nối vùng ĐBSCL (Tây Nam Bộ) với vùng TPHCM (Đông Nam Bộ).

Thành phố Vĩnh Long hiện nay

Thành phố Vĩnh Long hiện nay

Quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL là cơ sở để tìm ra các chiến luợc phát triển bèn vững (PTBV) và thích ứng với BĐKH

Theo Dự án quốc gia VIE/95/051, “Quy hoạch chiến lược hợp nhất (Quy hoạch tích hợp) là sự hợp nhất giữa các quy hoạch kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và quy hoạch xây dựng …để tìm ra mục tiêu quy hoạch chung đảm bảo sống tốt, công bằng và tính bền vững’.

“Quy hoạch chiến lược hợp nhất” so với quy hoạch truyền thống, “quy hoạch tổng thể mặt bằng” hiện nay có một số điểm mới. Quy hoạch mang tính chiến lược thay vì toàn diện, linh hoạt thay vì cứng nhắc, tập trung vào quy trình thay vì sản phẩm, có sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan thay vì là sự duy ý chí và quan điểm chuyên gia đơn thuần, quy hoạch có tầm nhìn dài hạn thay vì tính nhiệm kỳ, có tính đến toàn cầu thay vì chỉ địa phương.

Hiện nay một trong các thách thức lớn mà các vùng đô thị đặc biệt tại ĐBSCL đang phải đối mặt là những tác động của BĐKH gây ra. Vì vậy để thích ứng và giảm nhẹ những tác động của BĐKH như nhiệt độ tăng, nước biển dâng, khí’ hậu cực đoan… cần tích hợp thêm các chiến lược thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH như
chống nóng, chống ngập và giảm khí thải nhà kính… vào trong quy hoạch chiến lược hợp nhất của vùng.

Tuy nhiên quy hoạch chiến lược hợp nhất không thể thay thế cho các bản quy hoạch kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và quy hoạch xây dựng. Đúng hơn là quy hoạch chiến lược hợp nhất như “một cái dù” bao trùm lên các bản quy hoạch kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và quy hoạch xây dựng, là công cụ để tìm ra mục tiêu quy hoạch chung. Đầu ra của Quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL là mục tiêu quy hoạch chung, trên cơ sở đó đê ra các chiến lược giải quyết các thách thức để PTBV và thích ứng với BĐKH” có thể bao gồm:

Chiến Iược kinh tế: Ngăn chặn nước lũ ở thượng nguồn châu thổ và xây dựng một nền nông nghiệp thích nghi với lũ. Trong khi đó, đối với khu vực duyên hải cần mở rộng kinh tế nước lợ nhằm thích nghi với nhiễm mặn tăng cao. Giảm diện tích lúa, chuyển sang tôm cá, trái cây để thích nghi với điều kiện tự nhiên đang thay đổi bởi tác động BĐKH như hạn hán, xâm nhập mặn, nơi quá nhiều nước, nơi quá ít nước, nước bẩn. Phát triển điện gió, điện mặt trời và công nghiệp thực phẩm.

Chiến Iuợc xã hội: Phát triển nguồn lực con người, tri thức công nghệ thông qua
việc xây dựng năng lực đào tạo. Tăng cường công ăn việc làm, khuyến khích và tạo nguồn lực cho các đòn bẩy đầu tư nguồn lực vào lĩnh vực thực phẩm nhằm tạo ra nhiều việc làm hơn cho phát triển lực lượng lao động khu vực nông thôn.

Chiến lược bảo vệ môi trường: Dự báo và xây dựng kịch bản cho toàn vùng để đối phó với BĐKH, nước biển dâng cao và bảo vệ môi trường sinh thái đang bị suy thoái ở ĐBSCL trong đó có cả môi trường biển.

Chiến lược không gian vật chất: Phát triển đô thị thông minh và đô thị xanh với nhiều hồ cảnh quan, sinh thái điều tiết nước ngọt giảm ngập lụt. Liên kết vùng trong sử dụng nước ngọt, kết nối hạ tầng.

Để có các quyết định then chốt có tính chiến lược, chúng phải mang tính chiến lược ngay từ khi xây dựng… Các dự án có quy mô lớn đòi hỏi các bên tham gia và hợp tác cả khi xây dựng và thực hiện. Trước khi quyết định giải pháp công trình nào đó cần cân nhắc các yếu tố trên cả 3 mặt: kinh tế, xã hội, và môi trường để quyết định công trình nào là công trình đầu tư mà không hối tiếc. Đây là việc không thể thực hiện trong phạm vi một bộ. Nó là thách thức liên ngành, đòi hỏi phải có sự tích hợp và hợp tác đa ngành./.

Nguyễn Đăng Sơn – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị & phát triển hạ tầng Nguyên Giám đốc Dự án quốc gia “Nâng cao năng lực quy hoạch và quản lý đô thị TPHCM-VIE/95/051”