31/07/2020

Cần một kịch bản mới cho quy hoạch không gian phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam?

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ đô thị hóa nhanh, tỷ lệ người sống ở nông thôn đang giảm dần, tiến tới mức 40% vào những năm tiếp theo. Như vậy, nông thôn cũng chuyển đổi dần dần: không hoàn toàn chỉ là nơi ở của bà con nông dân… Môi trường sống ở nông thôn đang quá trình chuyển đổi như thế nào và những giải pháp nào để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở nông thôn? KTS Trần Huy Ánh đồng thời đặt vấn đề: Cần một kịch bản mới cho quy hoạch không phát triển kinh tế, xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay.  

Nông thôn Việt Nam đối với môi trường đo lường, khô hạn, suy vi tài nguyên đất và nước

Nông thôn Việt Nam đối với môi trường đo lường, khô hạn, suy vi tài nguyên đất và nước

 

Quy hoạch nông thôn mới cần nhìn lại những vấn đề gì?

Cho đến năm 2019, cả nước có 99,7% số xã trên cả nước được lập đồ án quy hoạch chung xây dựng. Các đồ án quy hoạch xây dựng xã NTM được xem là tiền đề xây dựng để xây dựng đề án xây dựng xã NTM để triển khai xây dựng NTM tại các xã trên toàn quốc. (“Thanh tra” – 4/10/2019) ,.

Bộ xây dựng từng xác định “ Thực tế cho thấy, chất lượng đồ án quy hoạch của một số xã còn thấp, thiếu sự liên kết giữa các dân cư, xây dựng các tầng công trình, vùng sản xuất tập trung and Thiếu vùng liên kết tính. Chủ yếu đáp ứng yêu cầu được xây dựng trước mắt, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài, nhiều nơi còn mang tính định thức ”.

Thực tế, nông thôn đang diễn biến không như mong đợi: Cảnh quan, nông thôn kiến ​​trúc đang mất dần tính chất sinh thái, bản sắc văn bản truyền thống và dần dần trở nên biến mất.

Tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, nông thôn vẫn là sức ép lớn, gây ảnh hưởng đến môi trường, xã hội. Môi trường trạng thái ô có xu hướng trầm trọng hơn. Xử lý chất thải, nông thôn bảo vệ thiếu quy hoạch, nguồn lực, giải pháp đồng bộ… “đồng bằng hóa miền núi, đô thị hóa nông thôn, bê tông hóa làng quê ”…

Những tồn tại trên đặt câu hỏi: Quy hoạch nông thôn thời gian qua có thực sự hiệu quả? Và chúng tôi cần làm gì để thay đổi trạng thái này?

Cả nước hiện có 833 đô thị các loại trên 63 tỉnh / thành, 707 quận / huyện, 11.000 xã / phường / thị trấn… cho thấy mạng lưới đô thị đã bao phủ các quận… và vùng nông thôn chỉ là các gian bao quanh các đô thị với bán kính 10-20km. Điều này cho thấy cần nhận diện rõ hơn sự khác nhau giữa hai không gian đô thị/nông thôn cũng giống như sự tương tác giữa chúng để có cách xử lý phù hợp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của công việc có thể sai thu gom vào cả hai khu vực.

Cần làm rõ sự khác biệt của quy hoạch đô thị và nông thôn. Khác biệt của nông thôn không tách rời với không gian sản xuất nông nghiệp: trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông sản. Quy hoạch NTM không được yêu cầu nếu chỉ cập đến không gian ở nông thôn mà không phải để cập đến nông nghiệp sản xuất không gian.

Cần một kịch bản mới cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam?

Làn di cư từ nông thôn ra đô thị tại Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ bởi khu vực thị chiếm 35% không gian lãnh thổ nhưng chiếm 70-80% GDP. Lao động nghiệp vụ Việt Nam sử dụng 48%, nông nghiệp chiếm 65% đất đai, sử dụng tới 92% tổng lượng nước, nhưng chỉ đóng góp 18% GDP (theo Ngân hàng Thế giới – WB).

Tuy nhiên, với tỷ trọng 60% nông dân, vai trò ổn định xã hội của nông nghiệp Việt Nam là quan trọng. Chính phủ có hỗ trợ nông nghiệp chính sách: không thu thế đất / hỗ trợ chi phí thủy lợi. Hỗ trợ nhiều như vậy nhưng do vận hành kinh tế kém hiệu quả nên nông dân nghèo, lãng phí tài nguyên / nhân lực.

Nông nghiệp Việt Nam: Low hiệu quả, thu nhập lao động nông nghiệp, low value gia tâng (so với các quốc gia châu Á)

Nông nghiệp Việt Nam: Low hiệu quả, thu nhập lao động nông nghiệp, low value gia tâng (so với các quốc gia châu Á)

Báo cáo “Chuyển đổi Nông nghiệp Việt Nam: tăng giá trị, giảm đầu vào” (WB-2016) cho thấy Nông nghiệp Việt Nam đang sử dụng  nước hiệu suất thấp chỉ 2,37 USD-GDP/m3 nước, thấp hơn Lào, Philippines; Thái Lan cao gấp 3 (6,93), Trung Quốc gấp 7,7 lần (18,2), Pháp cao gấp 36,5 lần (86,48).

Trong khi nguồn nước ô nhiễm / nghiễm mặn; Ngập lụt nông thôn mùa mưa và úng ngập đô thị mùa mưa / hạn hán mùa khô hạn diện rộng gia tăng, đặc biệt nghiêm trọng khi tác động kép của biến đổi khí hậu và các quốc gia đầu nguồn xây đập ngăn nước tràn lan… ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn nước – vốn là yếu tố sống còn của sản xuất nông nghiệp.

Nông nghiệp Việt Nam còn đối mặt với nguy cơ gây ô nhiễm môi trường phát tán diện rộng dư lượng hóa chất từ phân bón / thuốc bảo vệ thực vật  hay phế thải từ chăn nuôi, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản… gần như không kiểm soát.

Theo mô hình tính toán của cơ quan khoa học CH Pháp 1990: ô nhiễm từ sản xuất công nghiệp gấp 5 lần phát thải sinh hoạt, còn từ nông nghiệp gấp 13 lần. Nội suy từ phát thải sinh hoạt Việt Nam (2018) là 31 triệu tấn/ năm, thì tổng  lượng phế thải nông nghiệp lên tới hàng trăm  triệu tấn.

Chi phí xử lý phế thải có thể lên đến hàng trăm tỷ USD, nếu so với vài  chục tỷ USD xuất khẩu nông sản cho thấy “lợi bất cập hại”, trong khi thu nhập của lao động rất thấp so với các sản  xuất khác. Do đó cần một kịch bản mới cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nông nghiệp/nông thôn với sứ mạng giải thoát các bế tắc của đô thị Việt Nam chứ không phải là nơi đón nhận tài trợ vô tác dụng và thiếu bền vững .

Cuộc sống nông dân có chất lượng cao /Khung cảnh nông thôn mới thực sự đẹp!

Nông nghiệp Việt Nam phát triển không vững chắc

Nông nghiệp Việt Nam phát triển không bền vững

Nông thôn với sứ mạng giải thoát các bế tắc của đô thị Việt Nam?

Từ đầu Thế kỷ 20, Piere Gourou – nhà địa lý nhân sinh Pháp, tác giả  cuốn “ Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ” đã cảnh báo về sự thiếu hụt ruộng đất sản xuất nông nghiệp, sẽ có nguy cơ thiếu lương thực thực phẩm (nhưng lúc đó Việt Nam đã là cường quốc nông nghiệp của châu Á, xuất khẩu lúa gạo hơn cả Ấn Độ, Thái Lan … Lúc đó đồng bằng sông Hồng mới có 6 triệu người, ngày nay là hơn 24 triệu (tăng gấp 4 lần). Chia bình quân chỉ 2-3 sào/ nông dân nhưng đi đâu cũng thấy ruộng bỏ hoang, khu đô thị/công nghiệp dang dở.

Trong các làng quê hay trên cánh đồng, hầu như thiếu vắng thanh niên (họ đã ra thành phố hay các khu công nghiệp làm việc); chỉ còn lại người già và trẻ em. Nhiều vùng nông thôn thiếu lao động.

Thực tế cho thấy: thành phố thiếu đất ở, giao thông, cây xanh, mặt nước không gian công cộng, hạ tầng xã hội và kỹ thuật. Trong khi nông thôn vẫn còn không gian để bù trừ cho thiếu hụt này nhưng bắt đầu hoang hóa, ô nhiễm và thiếu sức sống tái tạo (nhiều vùng ô nhiễm không khí, nước thải và rác thải).

Nông thôn quanh các khu công nghiệp đô thị hoang hóa, trong khi thực phẩm, lương thực phải nhập khẩu, vận chuyển từ xa. Trong khi các đô thị phải chi một khoản tiền lớn cho việc thu gom xử lý nước thải / rác thải thì lại đi nhập rác thải về làm nguyên liệu sản xuất (sắt vụn / vải vụn/ giấy vụn/ nhựa đã qua sử dụng ) đó là chưa kể hàng hóa điện tử, xe máy, hàng tiêu dùng, quần áo đã qua sử dụng, thậm chí cả những nhà máy, dây chuyền sản xuất thải ra từ các nước phát triển .

Bài toán bế tắc từ đô thị và nông thôn có thể giải bằng cấu trúc lại chuỗi sản xuất tuần hoàn, dựa trên nguyên tắc chính sách “mở rộng trách nhiệm nhà sản xuất” – EPR (Extended Producer Responsibility) trong quản lý chất thải rắn / lỏng và khí – Đây chính là mô hình liên kết phát triển kinh tế tuần hoàn giữa đô thị và nông thôn. Chi phí thu gom và xử lý rác thải của Hà Nội và TP HCM là 1.200 -1.500 tỷ đồng/ năm. Trung bình các địa phương còn lại khoảng 2.500-3.000 tỷ đồng  (thu phí từ người dân khoảng 10-15%) , đó là chưa kể  phải bỏ ra hàng ngàn ha đất dành cho việc chôn rác .

Thu gom và xử lý nước thải hàng năm cũng phải chi hàng ngàn tỷ cho các thành phố lớn, đó là chưa kể đến hàng chục ngàn tỷ đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, rác thải. Nếu như 80% rác thải được phân loại, tái chế thành phân bón, xi măng, vật liệu xây dựng, san nền đường xá nguyên liệu tái chế khác … thì nông thôn sẽ phát triển sản xuất nông nghiệp không hóa chất, cả đô thị và nông thôn sẽ hình thành chuỗi sản xuất “không rác thải .  Ví dụ tại Hà Nội nếu được vận hành mô hình này, hàng năm sẽ có hàng chục ngàn tỷ được trả lại cho vùng nông thôn thông qua việc giảm chi phí phát thải  theo chính sách “mở rộng trách nhiệm nhà sản xuất” – EPR, tương đương với tổng đầu tư cho nông thôn trong 10 năm (2008-2018) khoảng 18.000 tỷ đồng .

Như vậy ngoài thu nhập từ nông sản giá trị cao (từ mô hình sản xuất không hóa chất), người nông dân quanh đô thị có thể tăng thu nhập tương đương với nông dân Philippines hoặc Indonesia.

Trong khi quản trị ngành nông nghiệp Việt Nam còn rất lạc hậu thì các doanh nghiệp tư nhân đã phát triển các giải pháp quản trị số hóa hiện đại, ví dụ: Bản đồ Quản lý rừng của Hieu Nguyen; Theo dõi cấp nước của P-GIS; và Quy hoạch đất đai công bố trên điện thoại"quyhoach.hanoi.vn" của VietPalm

Trong khi quản trị ngành nông nghiệp Việt Nam còn rất lạc hậu thì các doanh nghiệp tư nhân đã phát triển các giải pháp quản trị số hóa hiện đại, ví dụ: Bản đồ Quản lý rừng của Hieu Nguyen; Theo dõi cấp nước của P-GIS; và Quy hoạch đất đai công bố trên điện thoại”quyhoach.hanoi.vn” của VietPalm

Kiến trúc Nông thôn trong tiến trình hiện đại hóa quản trị nông nghiệp

Chương trình “Nông thôn mới” đã được triển khai trên toàn quốc với nhiều công trình điện – đường – trường – trạm, nhà ở, trụ sở xây dựng mới. Nhưng xem xét tổng thể sản xuất nông nghiệp, thu nhập nông dân và chất lượng sống, môi trường sinh thái nông thôn còn không ít tồn tại.

WB khuyến cáo Việt Nam cần phải tạo ra nhiều giá trị kinh tế hơn, hiệu quả cao hơn cho nông dân và người tiêu dùng đồng thời sử dụng ít hơn tài nguyên, nhân công và hóa chất độc hại.

Tỷ lệ giá trị gia tăng nông nghiệp/thu nhập đầu người tại các quốc gia giai đoạn 1990-2014 cho thấy Việt Nam giảm dần thì Malaysia neo ở mức cao. Đây là kết quả của Kế hoạch Malaysia thứ 9: Đặt nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trở thành một trong ba trụ cột tăng trưởng kinh tế quốc gia. Sản xuất nông sản chất lượng với giá trị gia tăng cao từ chế biến, phân loại, đóng gói, xây dựng thương hiệu.

Thành phần rác thải tại Việt Nam và mô hình liên kết tuần hoàn đô thị/nông thôn cùng phát triển kinh tế không rác thải

Thành phần rác thải tại Việt Nam và mô hình liên kết tuần hoàn đô thị/nông thôn
cùng phát triển kinh tế không rác thải

Chương trình thực hiện “Hợp đồng canh tác” ký giữa Hội đồng quản trị (đại diện Chương trình) với từng hộ nông dân dưới sự giám sát của Bộ Nông nghiệp, các ngành, địa phương liên quan. Hội đồng quản trị là người mua và đồng ý bảo lãnh cây trồng thị trường nơi nông dân sản xuất cây trồng theo chủng loại, giống, chất lượng, cấp, đóng gói và đặt lịch sản xuất. Toàn bộ được theo dõi bằng công nghệ số gắn trên bản đồ vệ tinh, đồng thời là thông tin chỉ dẫn địa lý.Việt Nam đã ứng phó rất tốt với Covid-19, trong đó có chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm vận hành trơn tru. Một số doanh nghiệp nông nghiệp gặt hái thành công ngay trong đại dịch này nhờ nắm bắt thông tin thị trường toàn cầu, gợi ý quản trị nông nghiệp Việt Nam không cần “xắn quần lội ruộng/chỉ đạo kịp thời”Mà cần vận hành linh hoạt, hiệu quả, sáng tạo, đa dạng hóa và tạo thêm mới giá trị.

Vapeecation là chuyển đổi số toàn bộ nông nghiệp quản trị. Chính xác thông tin, nhanh chóng là chìa khóa mở ra cho kinh tế nông nghiệp đa ngành, đa lợi ích và thích ứng với kinh tế toàn cầu chuyển đổi không ngừng. Một nền nông nghiệp tân tiến hiện đại sẽ mang lại thu nhập cao cho nông dân, và lúc đó họ sẽ thuê các kiến ​​trúc sư tài giỏi thiết kế nên cảnh nông thôn phồn hoa, tươi đẹp, văn minh sạch sẽ vượt xa các tiêu chí hiện tại, nếu được như vậy thì chương trình mới của nông thôn mới thực hiện thành công.

KTS Trần Huy Ánh

ntm (2)